CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 10.

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
7/Thánh nữ Sông Hằng Ganga. 
Hiện thân của thần Ganga - tranh vẽ của Raja Ravi Varma .
Đối với Hinđu Giáo, sông Hằng- với tên là Gaṅgā (tiếng Phạn và tiếng Hindi: गंगा Gaṅgā, tiếng Miến Điện: ဂင်္ဂါ, IPA: [ɡɪ́ɴɡà] Ginga; tiếng Tamil: gangkai, tiếng Thái: Khongkha) được miêu tả trong các văn bản Hindu và Ấn Độ là dòng sông thần thánh. Dòng sông được nhân cách hóa như một nữ thần, được người theo Hinđu Giáo thờ phụng; họ tin rằng ai tắm trên sông Hằng sẽ có thể giảm nhẹ tội lỗi của mình và đạt tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi của sự sống và cái chết. Những người hành hương đi từ xa tới đây để rải tro cốt của người thân xuống dòng nước sông Hằng, những mong linh hồn những người thân yêu của họ có thể sớm được siêu thoát. Nếu họ không đến sông Hằng, mọi người tin rằng, linh hồn sẽ khó được lên thiên đàng.
Nhiều thánh địa của đạo Hindu nằm dọc bờ sông Hằng, gồm có Gangotri, Haridwar, Allahabad và Varanasi. Suốt kỳ lễ Loy Krathong ở Thái Lan, các hoa đăng được thả xuống dòng nước để tỏ lòng tôn kính đức Phật Thích Ca Mâu Ni và nữ thần sông Hằng Ganga (พระแม่คงคา, คงคาเทวี) vì đã mang đến may mắn và rửa trôi mọi tội lỗi.

Nhiều câu chuyện Hindu đưa ra các phiên bản khác nhau về sự ra đời của thần Ganga. Theo một phiên bản, dòng nước thánh từ cái bầu đựng nước của đấng Sáng Tạo Brahma đã biến hình thành một thiếu nữ tên là Ganga. Theo một truyền thuyết khác tên là Vaishnavite, đấng Sáng Tạo Brahma đã rửa chân của thần bảo tồn Vishnu bằng một thái độ rất cung kính và rồi thu hết tất cả các giọt nước rửa chân này vào bầu nước thần Kamandalu. Phiên bản thứ ba kể rằng, nữ thần Ganga là con gái thần Himavan, vua của các ngọn núi, người mà có người phối ngẫu là thần Mena; do đó, thần Ganga là chị em với nữ thần Parvati. Mọi phiên bản đều cho rằng thần Ganga được nuôi nấng trên Thiên đàng, chịu sự nuôi dạy trực tiếp từ Brahma.

Vài năm trôi qua, một vị vua tên là Sagara đã dùng phép màu thu phục 6000 con trai. Một ngày, vua Sagara tiến hành nghi thức cầu phúc lành cho vương quốc. Một phần không thể thiếu trong biểu lễ là một con ngựa, nhưng đã bị đánh cắp do sự ghen tức của thần Mặt Trời Indra. Sagara ra lệnh cho tất cả các con trai đi khắp nơi trên Trái Đất để tìm kiếm con ngựa. Họ đã tìm ra con ngựa ở cõi dưới, ngay gần chỗ tu sĩ Kapila đang ngồi thiền. Tin rằng tu sĩ đã đánh cắp con ngựa, họ ném những lời xúc phạm vị tu sĩ, khiến cho việc tu tập hành xác bị gián đoạn. Lần đầu tiên sau nhiều năm, vị tu sĩ mở mắt và nhìn vào các con trai của Sagara. Với chỉ một ánh nhìn đó, tất cả 6000 chàng trai bỗng bị bốc cháy cho đến khi chết hết.
Linh hồn của các hoàng tử vua Sagara trôi dạt vì chưa được làm lễ tiễn đưa. Khi Bhagiratha, một trong những hậu duệ của vua Sagara, con trai của Dilip, biết được kiếp nạn này, ông thề sẽ mang thần Ganga hạ giới để lấy nước của thần thanh lọc các linh hồn và siêu thoát cho họ về Trời.
Bhagiratha cầu Brahma cho Ganga được hạ giới. Brahma đồng ý; Ngài ra lệnh cho Ganga hạ giới và sau đó xuống cõi dưới để các linh hồn là tổ tiên của Bhagiratha có thể lên được thiên đàng. Ganga cảm thấy rằng đây thực sự là một sự xúc phạm, nàng quyết định rằng khi hạ giới sẽ quét sạch cả Trái Đất. Được thông báo về điều này, Bhagiratha cầu xin thần phá hủy Shiva ngăn chặn việc hạ giới của Ganga.

Ganga kiêu ngạo hạ ngay xuống đầu thần Shiva. Nhưng thần Shiva đã rất điềm tĩnh bẫy nàng trong sợi tóc của thần và để cho nàng thoát ra bằng một dòng suối nhỏ. Cuộc chạm trán với thần Shiva làm cho Ganga trở nên kiêu ngạo hơn. Khi Ganga xuống cõi dưới, nàng đã tạo ra một dòng suối khác để vẫn được ở trên mặt đất mà giúp đỡ làm thanh sạch các linh hồn kém may mắn ở đây. Nàng là dòng sông duy nhất chảy qua ba thế giới: Swarga (thiên đường), Prithvi (hạ giới) and, Patala (cõi dưới hay địa ngục). Do đó, thần được gọi là "Tripathagā" (người đi qua ba thế giới) trong tiếng Phạn.
Vì những nỗ lực của Bhagiratha nên Ganga nên dòng sông còn được gọi là Bhagirathi, và từ "Bhagirath prayatna" được sử dụng để miêu tả những nỗ lực quả cảm hay những thành công đạt được qua khó khăn.
Một tên khác mà Ganga được đặt cho là Jahnavi. Chuyện kể rằng, một lần khi thần Ganga hạ giới, trên đường tới Bhagiratha, dòng nước cuộn mà thần tạo ra đã tạo nên sự bất an và phá hủy các cánh đồng, cũng như là của một vị tu sĩ tên là Jahnu. Vị tu sĩ giận dữ, ông đã uống cạn dòng nước Ganga. Lúc này, các vị thần cùng cầu xin cho Ganga để nữ thần có thể tiếp tục thực hiện sứ mạng. Cảm thấy hài lòng với những lời cầu xin, vị tu sĩ thả Ganga (và dòng nước của thần) từ lỗ tai ra. Do đó mà có cái tên "Jahnavi" (con của Jahnu) đặt cho Ganga.
Santanu ngăn Ganga dìm chết đứa con thứ 8 của họ, đứa trẻ sau này lớn lên và trở thành Bhishma.
Thỉnh thoảng, người ta tin rằng, dòng sông chắc chắn sẽ cạn vào cuối kỷ Kali Yuga (kỷ bóng tối- chính là kỷ nguyên hiện tại của loài người), giống như là dòng sông Sarasvati; sau khi sông Hằng cạn thì kỷ này cũng chấm dứt. Theo vòng tuần hoàn, thì kỷ tiếp theo sẽ là Satya Yuga- kỷ nguyên của Sự Thật.
Thần Ganga được miêu tả trong "Độc Tụng Vệ Đà" Rigveda, cuốn kinh sớm nhất và theo tương tuyền là thần thánh nhất của đạo Hindu. Thần Ganga được đề cập đến ở phần ca ngợi dòng sông nadistuti (Rigveda 10.75), gồm có danh sách các sông từ Đông sang Tây. Trong RV 6.45.31, từ Ganga cũng được nói tới nhưng không rõ là từ này dùng để chỉ dòng sông. RV 3.58.6 viết rằng "ngôi nhà xưa của Người, người bạn quý của Người, anh hùng ạ, của cải của Người đều nằm hai bên bờ Jahnavi (JahnAvyAm) cả". Dòng thơ này cũng có thể đang đề cập đến sông Hằng. Trong RV 1.116.18-19, sông Jahnavi và cá heo sông Hằng xuất hiện trong hai dòng thơ cạnh nhau.
Theo các cuốn kinh của đạo Hindu như Skanda Purana, nữ thần sông Hằng là mẹ nuôi của Karttikeya (Murugan)- con trai của thần Shiva và Parvati.
Parvati người đã tạo nên hình hài của thần voi Ganesha (con trai của Shiva và Parvati) từ những phần nhơ nhuốc của cơ thể bà; sau này thần Ganesha đã được ban cho sự sống nhờ nước thánh của thần Ganga. Do đó, Ganesha được xem như có hai bà mẹ—Pārvati và Gangā, và cũng vì thế nên được gọi là Dvaimātura và Gāngeya (con trai của Ganga).
Theo truyện Devi Bhagavata Purana, thần bảo tồn Vishnu có ba vợ; họ liên tục cãi nhau; do đó, cuối cùng Vishnu chỉ giữ lại bà vợ Lakshmi, tặng Ganga cho Shiva và Saraswati cho Brahma.
Kỷ nguyên Gupta, điêu khắc gốm sứ về thần Ganga được tìm thấy tại Ahichchhatra, UP, hiện đang được giữ tại bảo tàng Quốc gia tại New Delhi.
Theo kể lại của sử thi Hindu Mahabharata thì các vị thần Vasu, do bị Vashishta nguyền rủa nên đã xin Ganga hãy làm mẹ của họ. Ganga tái sinh và trở thành vợ vua Santanu với một điều kiện rằng không được vì bất kỳ điều gì mà Ngài có thể chất vấn các hành động của thần, bằng không thần sẽ rời bỏ Ngài. Bảy vị thần Vasu đã lần lượt được sinh ra dưới lốt những đứa con họ; thần Ganga dìm chúng xuống dòng nước của nàng để giải thoát chúng khỏi các loại hình phạt, còn vị vua thì không hề phản đối. Chỉ khi đứa trẻ thứ tám được sinh ra, nhà vua cuối cùng cũng chống lại hoàng hậu; do đó, thần Ganga đã bỏ đi. Vì thế, đứa trẻ thứ 8, tái sinh của thần Dyaus, vẫn còn sống, bị cầm tù trong vòng luân hồi, và sau này được biết tới với tái sinh của thần là Bhishma (Devavrata), người sẽ trở thành một trong những nhân vật đáng kính nhất trong sử thi Mahābhārata.....
Sông Hằng (tiếng Hindi: गंगा, tiếng Bengal: গঙ্গা, tiếng Phạn: गङ्गा / Ganga, Hán-Việt: 恒河 / Hằng hà) là con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài 2.510 km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo tên vị nữ thần Hindu Ganga.Sông Hằng có lưu vực rộng 907.000 km², một trong những khu vực phì nhiêu và có mật độ dân cao nhất thế giới.
Sông Hằng là sông linh thiêng nhất đối với Ấn Độ Giáo.Con sông là nguồn sống của hàng triệu người Ấn Độ sống dọc theo nó và phụ thuộc vào nó hàng ngày.Con sông có vai trò quan trọng về lịch sử với nhiều thủ đô, thủ phủ của các đế quốc trước đây (như Pataliputra, Kannauj,Kara, Kashi, Allahabad, Murshidabad, Munger, Baharampur, Kampilya, và Kolkata) nằm dọc theo bờ sông này.
Bản đồ cụ thể lưu vực sông Hằng (màu cam), sông Brahmaputra (màu tím) và sông Meghna (màu xanh)
Sông Hằng được xếp thứ 5 trên thế giới về mức độ ô nhiễm năm 2007. Sự ô nhiễm đe dọa không chỉ đối với con người mà còn hơn 140 loài cá, 90 loài lưỡng cư và cá heo sông Hằng.Chương trình Hành động sông Hằng với mục tiêu nhằm cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường của sông hầu như thất bại hoàn toàn, do thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu quy hoạch môi trường tốt, và thiếu sự hỗ trợ của các chức sắc tôn giáo.
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông.
Những người hành hương Hindu hành hương đến các thành phố thánh Varanasi, nơi các nghi lễ tôn giáo thường được cử hành; Haridwar được tôn sùng vì nó là nơi sông Hằng rời dãy Himalaya; còn Allahabad, nơi dòng sông Saraswati huyền thoại được người ta tin là chảy vào sông Hằng. Mỗi 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri.http://vi.wikipedia.org/).
Shantanu là hậu duệ của Puru người con ngoại hôn nhưng có hiếu của Yayati, anh chàng ăn vụng bị đổ bể đã nói ở trên. Buổi chiều nọ, Pratipa, thân phụ của Shantanu ngồi cầu nguyện bên bờ sông Hằng. Một vị nữ Thần hiện lên từ bọt nước, y hệt như nữ thần Aphrodite (Venus – Vệ Nữ) trong huyền thoại Hy Lạp-La Mã. Nàng đến ngồi trên đùi phải của nhà Vua và yêu cầu nhà Vua lấy nàng. Ông từ chối viện cớ đùi phải là chỗ ngồi của một nàng dâu chứ không phải của một người tình. Và ông chấp nhận để người con  trai sẽ sanh ra của ông (là Shantanu), lấy nàng.
Nữ thần chính là Ganga, Thần sông Hằng, một phần của búi tóc của Shiva, như chúng ta đã được biết trong phần một của loạt bài. Thật ra, đầu mối của câu chuyện bắt đầu từ trước đó ít lâu, khi Ganga đến triều kiến Brahma. Một cơn gió nổi lên làm tung váy của Ganga. Chư Thần và chư Tiên đều ngoảnh mặt nhìn sang chỗ khác, ngoại trừ Mahabhisha, một vị Vua mới thoát vòng luân hồi lên được cửa Trời. Mahabisha bị phạt phải đầu thai trở lại, nhưng xin được đầu thai làm … chồng Ganga ! Một chủng tử dục vọng khởi lên là biển dục tràn dâng không gì ngăn nổi vậy. Mahabisha đầu thai làm con Pratika, tức Shantanu, vị hoàng tử đã được hứa hôn với Ganga. Đồng thời, sẵn dịp xuống dương trần, Ganga cũng hứa giúp cho 7 vị Thần bị tội phải đi đầu thai, sớm được siêu thoát. Phương thức được thỏa thuận là : Ganga sẽ cho các vị này mượn tử cung của mình để đầu thai, và sẽ giết họ đi ngay khi mới sanh. Một người con cuối cùng sẽ không bị giết để đánh dấu cuộc tình tương lai với Shantanu, nhưng người con ấy sẽ không có hậu duệ.  
Mọi chuyện được an bài ổn thỏa. Shantanu lớn lên, đi dạo bên bờ sông Hằng, thấy một Nữ Thần tuyệt đẹp hiện lên từ bọt nước (Venus !), yêu nàng như điếu đổ, v.v… Ganga đặt một điều kiện là Shantanu không được thắc mắc hay phản đối trước bất kỳ việc gì nàng làm. Như dự liệu, Ganga mang thai, sanh con và giết ngay đứa trẻ sơ sinh, rồi vứt nó xuống sông mà nói : « Đây, ta làm phúc cho ngươi ! ». Bảy lần như vậy. Shantanu không dám thắc mắc, phản đối. Đến lần thứ tám, ông không chịu đựng nổi nữa, và kêu lên : « đừng giết con của chúng ta ! » Ganga tuyên bố đứa trẻ sẽ sống nhưng Shantanu đã bội ước, nên nàng phải đem con quay về Trời. Đứa bé tên là Bhishma, một nhân vật toàn hảo, mang những đức tính tốt nhất của bảy vị Thần đã được Ganga giúp. Bhishma ở với mẹ một thời gian rồi quay về sống với cha. Bhishma sẽ là vị Tướng Tổng Tư Lệnh của quân đội Kaurava sau này.
Shantanu ở lại dương trần một mình, và ít lâu sau, mê Satyavati, cô công chúa hôi mùi cá nay đã trở thành thơm như … mít ( !) nhờ ăn nằm với vị Đạo Sĩ. Tuy nhiên, cha nuôi của Satyavati, tức người thủ lãnh ngư phủ, không chịu gả cô nàng cho Shantanu. Lý do, Shantanu đã có người thừa kế. Ông  ngư phủ nọ muốn  con của Satyavati sau này sẽ trở thành Vua, chứ không mãi mãi là loại thứ dân « trên răng dưới dế » như ông. Shantanu giao cho Bhishma đi thương lượng xem có thể thỏa hiệp được cách nào hay không ? Ở đây chúng ta thấy một trường hợp thường dân làm khó dễ Vua Chúa ... Bhishma là bậc đại hiếu. Ông chấp nhận từ bỏ quyền thừa kế để con của Satyavati được làm Vua kế ngôi cha mình. Ngư phủ vẫn không chịu, và đòi Bhishma phải thề sẽ không có con để chắc chắn sau này không có vấn đề tranh dành với hậu duệ của Satyavati. Bhishma thương cha, nên cũng nhận lời. Thế là một cách vô tình, ông đã thực thi lời giao ước của Ganga, mẹ ông, với bảy vị Thần bị phạt đi đầu thai đã như đã nói ở trên : đứa con thứ tám, là ông, sẽ không bị giết, nhưng không được có con. Bhishma được chư Thần tán dương, cho muôn ngàn cánh hoa rơi xuống quanh ông, và cho ông được đặc quyền muốn chết lúc nào cũng được, đồng thời có thể chọn kẻ sẽ giết mình. Chúng ta cũng nhận ra mưu trí của Shantanu, đẩy Bhishma đi thương lượng việc hôn nhân của mình để Bhishma « tự giác » hy sinh mà không cần mình phải đòi hỏi ! " ( http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/ ).
Lễ hội tắm Sông Hằng ở Ấn Độ.

Do trận chiến kéo dài 12 ngày đêm liên tục trên trời, tương đương với 12 năm dưới mặt đất. Trong tâm thức người Ấn Độ thì những giọt trường sinh đã mang lại điều linh thiêng cho bốn vùng đất trên và người Hindu giáo đã kỉ niệm ngày lễ này 12 năm một lần, luân phiên tại bốn địa điểm. Nếu tính như vậy thì cứ 3 năm tại Ấn Độ lại diễn ra lễ Kumbh Mela. Theo tính toán chiêm tinh của người Ấn thì lễ hội Kumbh Mela được tổ chức 12 năm một lần và bắt đầu từ ngày Makar Sankranti. Thời điểm mà mặt trăng, mặt trời và sao mộc Capricorn nhập vào cung thứ nhất của hoàng đạo. Các cấu hình trên Makar Sankranti chiêm tinh gọi là “ Kumbha Snana yoga” và được coi là đặc biệt tốt lành. Người Hindu tin rằng việc thông quan từ trái đất đến các hành tinh cao hơn mở cửa vào lúc đó, do đó cho phép các linh hồn dễ dàng có thể đạt được các thiên thể thế giới. Đó cũng là lý do tại sao lễ hội Kumbh Mela lại phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân. Năm 2010 Makar Sankranti rơi vào ngày 14 tháng 1 ở Haridwar, một thành phố nhỏ tràn ngập các thánh đường nằm ở chân dặng núi  Himalaya, nơi con sông Hằng bắt nguồn và lễ hội sẽ kết thúc vào 28-4. Nhiệt độ hạ xuống đến 35 độ F vào tối 13, nhưng người tắm là không nản lòng. Qua nửa đêm, hàng ngàn bắt đầu bước vào nơi hợp lưu của ba con sông, ngâm mình trong nước lạnh như đá. Lớn tiếng hô vang "Bolo Mai Ganga ki jai (tất cả các vinh quang về cho Mẹ Ganga)" . Tràn ngập không khí đêm là những người hành hương đang rửa sạch nghiệp xấu của họ. Họ đến từ khu vực tắm quấn trong chăn và run rẩy vì lạnh. Tuy nhiên khi họ đi ra khỏi nước, hàng ngàn người khác  liên tục hô "Bolo Mai Ganga ki jai" và bước xuống sông.

Lúc bình minh, bầu trời đỏ và mặt trời lên  một đám đông gồm 5.000.000 người đang từ từ tiến về phía Sangam. Từ trung tâm hàng đoàn người thực hiện một cuộc diễu hành tuyệt vời công bố bắt đầu chính thức của Mela Kumbha. Ban nhạc chơi, mọi người nhảy múa trong hân hoan, và lá cờ và biểu ngữ đầy màu sắc bay trên đám đông.
Người đứng đầu rước long thần. Những người đàn ông thánh tham gia vào lễ hội  như một việc tìm kiếm sự cân bằng. Họ hy vọng thoát khỏi đau khổ và thực hành khổ hạnh như đời sống độc thân hoàn toàn và không tích lũy của cải vật chất. Vì vậy, họ được gọi là liberationists. Cơ thể của họ được bao bọc trong đống tro tàn rồi họ xuống khu vực tắm. Bước vào nước trong sự hỗn loạn, thổi conchshells và hát "Shiva ki jai, Ganga ki jai", họ khoát nước lên và chơi giống như trẻ em, các trẻ em của sông Hằng.
Tiếp đến vairagis Vaisnava, hành khất lang thang, những vị thánh sống một cuộc đời khổ hạnh. Sau đó, đến các giáo phái khác, vô số các vị tu sĩ mặc áo vải màu nghệ tây cùng diễu hành. Mỗi lần một lượt tắm trong Sangam.
Mỗi sáng trên các bậc làm từ đá cẩm thạch trắng( Gát), các tu sĩ tiến hành ngi lễ cúng tế dòng sông. Thấp hơn một chút các tín đồ đặt những chiếc cốc nhỏ làm bằng lá đa chất đầy hoa và nến, có người thì đổ sữa xuống dòng sông…
Những người đầu tiên thực hiện nghi thức tắm sông Hằng là hàng trăm tu sĩ khổ hạnh ở trần ( còn gọi là các Naga sadhus), sống đơn độc và thiền trong các vùng rừng núi. Họ được người Hindu tôn vinh là đại diện cho các thánh thần trên mặt đất vì sự hy sinh bản thân và chối bỏ sống trần tục vật chất. Họ chị xuất hiện vào ngày Kumbh Mela, vào ngày này thì họ sẽ ở trần, bôi tro lên mình và sau đó đứng ngập trong nước đọc những câu thần chú, những câu kinh hay luyện Yoga. Ngoài ra, có hàng chục người nước ngoài tham gia nghi thức tại sông Hằng.
Ở những nơi khác những người Hindu sùng đạo cầu nguyện trên bờ sông Hằng cùng với những người thân của họ trong lễ hội Kumbh Mela ở Haridwar.
Các sự kiện chính của lễ hội là nghi thức tắm rửa tại các ngân hàng của các sông trong bất cứ thị trấn được tổ chức. Nasik đã đăng ký khách truy cập tối đa 75 triệu. Các hoạt động khác bao gồm các cuộc thảo luận tôn giáo, ca hát đạo đức, ăn uống  giữa mọi người với nhau,....  Hàng ngàn con người thánh thiện và phụ nữ tham dự, Một số người được gọi là naga sanyasis, có thể không mặc quần áo ngay cả trong mùa đông khắc nghiệt.
 2. Phần hội

Các tín đồ đạo Hindu rất coi trọng lễ hội hành hương tắm gội để “rửa sạch tội lỗi” của mình trong dòng sông Ganga. Quy định về thời gian, địa điểm tiến hành lễ hội này cũng phức tạp. Lễ hội này được chia thành nhiều loại gồm Puma Kumb Mela, Ardh và Maha.
            Puma Kumb Mela - tạm gọi là lễ hội hoàn chỉnh được tiến hành ba năm/lần, lần lượt tại bốn địa điểm như Allahabad ở bang Uttar Pradesh, Haridwwar và Uijain ở bang Madhya Pradesh; và Nashik ở bang Maharasshtra, tùy thuộc vào sự tính toán của các nhà chiêm tinh về vị trí của hành tinh và Mặt Trời. Lễ hội Puma được tiến hành tại Haridwar kéo dài suốt ba tháng, từ lễ hội Makan Sankranti được tổ chức vào ngày 14/1 và sẽ kết thúc với lễ hội Shak Purnima Snan vào ngày 28/4 tới.
            Mahamaham là Mela Hindu Kumb lễ hội kỷ niệm 12 năm trong bể Mahamaham nằm ở thị trấn miền Nam Ấn Độ Kumbakonam trong Tamil Nadu , Ấn Độ . Ấn giáo xem xét tham gia một nhúng thánh tại bể Mahamaham trên ngày của Mahamaham là thiêng liêng. Mahamaham cuối cùng được tổ chức vào ngày 06 tháng ba năm 2004, với những người từ các nơi thánh nhúng trong bể Mahamaham. Kumbh Mahamaham tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm 2016. Mặc dù Ardh Kumbh Mela nhỏ hơn lễ hội Kumbh Mela, việc chuẩn bị hậu cần cũng đòi hỏi quy mô rất lớn. Việc đảm bảo đồ ăn, nước uống và nơi ở cho những người hành hương là mối lo chính của giới chức địa phương.
Khoảng 50.000 lều và 25.000 toilet được dựng lên trên khu vực 80 km2 trên bờ sông Hằng. Để đề phòng các sự cố tai nạn và tấn công khủng bố có thể xảy ra, hơn 50 đại đội cảnh sát dự bị trung ương và cảnh sát địa phương được triển khai để bảo đảm an ninh trong thời gian diễn ra lễ hội.
            Những người hành hương bất chấp cái lạnh giá buổi sớm đổ về nơi giao của sông Hằng, Yamuna và con sông huyền thoại Saraswati để gột rửa tội lỗi.
Giai đoạn tắm sông chính kéo dài 6 ngày, tùy thuộc vào vị trí của các vì sao . Trong ngày đầu tiên (3/1), gần 10 triệu người, dẫn đầu là những nhân vật linh thiêng bôi tro và không mặc quần áo, ngâm mình trên sông. Tín đồ Hindu tin rắng tắm sông còn là sự kết thúc của một quá trình chuyển kiếp.
Trong thời gian diễn ra lễ hội Maha vào năm 2001 tại Allahabad có tới 60 triệu người hành hương tham gia - đạt kỷ lục thế giới về số lượng người dự một lễ hội trong lịch sử thế giới. Lễ hội Kumbh thu hút đông đảo người đến tham dự. Từ trung tuần tháng Giêng khi lễ hội bắt đầu, có tới 40 triệu người đã đổ về Haridwar, một thị trấn có rất nhiều đền thờ và lễ hội sẽ kết thúc vào cuối tháng Tư. Để thực hiện lễ hội này một  ban tổ chức lớn đã được thành lập  để cung cấp nơi ăn chốn ở cho khách hành hương để hoạch định và thi hành các kế hoạch phục vụ cho lễ hội. Đây là một công tác quy mô có sự tham gia của các lực lượng an ninh để lo liệu các vấn đề như an ninh, vệ sinh, các trạm y tế, dịch vụ cung cấp nước, điện vân vân …
Lễ hội được coi như cuộc tụ họp tôn giáo lớn nhất thế giới, thu hút hơn 40 triệu người hành hương kể từ khi khởi sự vào trung tuần tháng Giêng. Nghi thức tắm sông Hằng đánh dấu cao điểm của lễ hội Kumbh Mela của Ấn Độ Giáo kéo dài đến ba tháng. Ban tổ chức ước tính có hơn tám triệu người thực hiện nghi thức tắm ở Sông Hằng hôm Thứ Tư trên một khúc sông dài 15 kilomet. Một số khách hành hương thích đến Mela Kumbha vào ban ngày tại các phòng tắm thiêng liêng lớn như Makar Sankranti và sau đó trở về nhà, trong khi những người khác dựng trại và ở lại cho đến hết lễ hội như một kỳ nghỉ gia đình. Lễ hội Kumbh Mela vẫn được mô tả là một cơ hội thể hiện lòng mộ đạo độc nhất vô nhị trên thế giới về tầm mức cũng như về mầu sắc. Những người theo đạo Hindu tin rằng tắm trên sông Hằng dài 2.510km được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng.  Cứ 12 năm, một lễ hội Purna Kumbha (Vạc Đầy) được tổ chức ở Haridwar và Allahabad mà trong các lễ hội này hàng triệu người đến để tắm trong sông Hằng. Những người hành hương cũng đến các địa điểm linh thiêng khác gần các thượng nguồn sông Hằng, bao gồm đền thờ dưới núi băng Gangotri. 
Tại thị trấn Haridwar ở Bắc Ấn Độ, hằng triệu tín đồ Ấn Độ Giáo đã thực hiện nghi thức tắm trên Sông Hằng vào ngày chót trong 4 ngày được coi là lành nhất trong lễ hội kéo dài ba tháng qua. Thứ Tư là ngày chót trong bốn ngày lành tháng tốt cho nghi thức nhúng mình dưới nước dòng sông được các tín đồ Hin-đu coi là linh thiêng này.
Những người dân tộc Hindu, dân tộc chiếm đa số trong dân số Ấn Độ, xem sông Hằng là một dòng sông thiêng: Ganga là con gái của thần núi Himavan hay Himalaya. Theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, và nước sông được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông. Người theo Ấn Độ Giáo tin rằng tắm tại Sông Hằng sẽ rửa sạch tội lỗi của họ và giải phóng họ khỏi vòng luân hồi.
Sau khi trầm mình trong dòng nước được cho là linh thiêng của sông Hằng, nhiều người hành hương đạo Hindu sẽ lấy nước cho vào bình hoặc chai lọ để mang về cho người thân hoặc bạn bè, những người vì lí do gì đó không thể tham gia sự kiện tôn giáo này. Một số người còn tưới nước trên quần áo. Khoảng 1 triệu người đã tham dự lễ tắm sông Hằng trong hai ngày đầu tiên của lễ hội Kumbh Mela. Ước tính đến khi kết thúc lễ hội sẽ có đến hàng chục triệu người tham gia sự kiện này.Điểm nổi bật chính cho hầu hết các khách hành hương trong một Mela Kumbha là việc chấp hành tắm thiêng liêng tại Sangam. Người ta nói rằng tắm một trong những con sông thiêng liêng đã thanh lọc thì hiệu ứng được tăng lên 100 lần. Hơn nữa, người ta nói rằng khi một người tắm ở Sangam trong Mela Kumbha thì sẽ tăng tới 1000 lần
Có đến hàng triệu người. Một số đến trên các chuyến tàu đông đúc thực hiện công suất gấp năm lần ngày bình thường. Một số đến bằng xe buýt, bằng xe hơi, một số xe bò, và những người khác cưỡi trên ngựa, lạc đà, và thậm chí cả voi. Các máy bay điều lệ tư nhân giàu có, nổi tiếng và máy bay trực thăng mang theo các thiết bị cắm trại. Sau khi tới họ dựng trại dọc trên bờ sông Hằng ở Allahabad để chào mừng lễ hội tâm linh lớn nhất từng được tổ chức trong lịch sử của thế giới, Kumbha Mela. Kumbha Mela đã đạt được danh tiếng quốc tế là "hành động lớn nhất thế giới của đức tin." Khách hành hương đến thánh sự kiện này với niềm tin to lớn và với số lượng áp đảo. Đức tin là điều quan trọng nhất cho những người hành hương tại Kumbha Mela, họ có một niềm tin nào đó rất cao siêu. Để hiểu ý nghĩa của Mela Kumbha và các vai trò quan trọng là nó đóng vai trò trong tâm linh của Ấn Độ, thì chúng ta phải hiểu biết điều gì đó về sông Hằng thiêng liêng. Người mộ đạo tin rằng chỉ đơn giản bằng cách tắm ở sông Hằng là một trong những giải thoát khỏi tội lỗi quá khứ của họ (karma), và do đó hội đủ điều kiện để được giải thoát khỏi vòng sanh tử. Tất nhiên người ta nói rằng một lối sống tinh khiết cũng được yêu cầu sau khi tắm rửa, nếu không một lần nữa sẽ bị gánh nặng bởi nghiệp ứng. Các khách hành hương đến từ tất cả các tầng lớp xã hội, đi du lịch xa và chịu đựng nhiều khó chịu về thể chất, chẳng hạn như ngủ trong trong thời tiết gần như đóng băng. Họ trải qua những khó khăn này chỉ để nhận được lợi ích của tắm trong dòng sông thiêng liêng tại Kumbha Mela..
Lễ hội Kumbha Mela đã được tổ chức từ rất lâu và càng ngày số người tham dự lễ hội ngày càng đông. Năm 1977, số lượng khách hành hương tham dự Kumbha Mela lên đến 15 triệu.  Đến năm 1989, sự tham gia trong phạm vi của 29 triệu người, gần gấp đôi kỷ lục trước đó... Năm 2001, Kumbh Mela được tổ chức ở Prayag, aka Allahabad. Chính phủ Ấn Độ ước tính rằng khoảng 70 triệu người đến lễ hội này ở phía bắc Ấn Độ để tắm trong sông Hằng linh thiêng, nơi nó đáp ứng với cũng thánh sông Yamuna. Tắm ở vùng nước thánh tại thời điểm này tốt lành để rửa sạch nghiệp của bạn nợ. Vì vậy, nó có nghĩa là một phím tắt cho tinh thần giải phóng (moksha), giải thoát khỏi vòng sanh tử.. Tín đồ đã tụ tập trên bờ của sông Godavari snaan maha hoặc tắm thánh. Hơn 30.000 khách hành hương đã được tổ chức lại bởi các rào chắn trong một đường phố hẹp dẫn đến Ramkund , một điểm thánh, vì vậy các sadhus có thể tắm đầu tiên nghi lễ. Năm 2007 hơn 30 triệu người truy cập Ardh ​​Kumbh Mela ở Prayag . Năm 2010 Haridwar tổ chức Purna Kumbha mela từ Makar Sankranti (14 tháng 1 năm 2010) Shakh Purnima SNaN (28 Tháng 4, 2010). Hàng triệu người hành hương Hindu dự mela. Ngày 14 tháng 4 năm 2010, khoảng 10 triệu người tắm trong sông Hằng. Theo các quan chức vào giữa tháng Tư, khoảng 40 triệu người đã tắm kể từ 14 Tháng Một 2010. Hàng trăm người nước ngoài tham gia hành hương Ấn Độ trong lễ hội được cho là tập hợp tôn giáo lớn nhất trên thế giới.
Như một thành phố mọc lên dọc theo bờ sông trong Mela Kumbha được hoàn thành với thị trường, bệnh viện, và thậm chí cả một trại du lịch phục vụ du khách đến từ nước ngoài. Trại du lịch đã che chở hơn 1.000 du khách từ nước ngoài trong các lễ hội, nhất là từ châu Âu và Nam Mỹ. Một số các du khách đến từ nước ngoài chưa bao giờ đến Ấn Độ. Những người khác dường như cũng quen thuộc với những gì đã xảy ra ở Ấn Độ. Tất cả các nhu cầu cho sinh hoạt của các du khách nước ngoài cũng như người bản địa đều được chính quyền chu cấp khá đầy đủ để phục vụ cho lễ hội. Năm 2010 chính phủ Ấn Độ đã dành hơn 8 triệu đô la về tổ chức sơ bộ cho Mela Kumbha. Theo báo cáo của tờ báo quốc gia, các thỏa thuận cung cấp 5.000 lít nước tinh khiết uống mỗi phút, 8.000 xe buýt đưa đón khách hành hương trong và ngoài của khu vực lễ hội, có tới 16.000 cửa hàng và 6.000 cực cung cấp thiết bị điện; 6.000 xe quét và vệ sinh nhân viên làm việc trên để duy trì các tiêu chuẩn về sức khỏe, 9 cây cầu phao kéo dài sông Hằng khoảng 20.000 cảnh sát, lính cứu hỏa, và Lực lượng Cảnh sát Ấn Độ quốc gia, người giữ một buổi cầu nguyện liên tục tại các điểm kiểm tra và đóng mạch TV bảo vệ chống lại tắc nghẽn giao thông và khác có thể bùng phát hoặc rối loạn, và 100 bác sĩ và y tá gọi tất cả các lần tại các trạm hỗ trợ y tế.
Về vấn đề giải trí cho mọi người thì trong một số lều trại lớn chiếu  phim Ấn Độ và các nhóm múa cổ điển có trang phục kỳ lạ biểu diễn thu hút khán giả lớn. Trong một số lều trại  khác có màn hình xây dựng minh họa những câu chuyện từ sử thi Ấn Độ cổ đại như Ramayana và Mahabharata. Có rất nhiều hoạt động thú vị mà khách hành hương có thể tham dự.

Về các dụng cụ sinh hoạt cho khách hành hương thì tại các khu vực thị trường tất cả những nhu cầu cần thiết và xa xỉ của Kumbha Mela để bán. Trong một nơi trái cây và rau quả tươi đã có sẵn. Ở một nơi khác, chăn len, bán rất chạy, được chất đống trong stacks lớn dễ dàng lựa chọn. Dọc theo các đường phố chính Gypsies lây lan sản phẩm của họ bao gồm cả hình dạng và kích cỡ khác nhau của nồi đồng, bát, hạt cho thiền định, nước hoa kỳ lạ hương như kastori  và Chandan  và thậm chí cả con hổ có móng vuốt bằng vàng.
Về thực phẩm trong mùa lễ thì có một điều cũng khá thú vị là tất cả thực phẩm trong suốt lễ hội ăn chay. Không có một dấu vết nào là đồ mặn như cá hoặc trứng được tìm thấy trong trại nào hoặc bất kỳ nơi ăn uống công cộng nào.
Nhiều thầy bói thần bí thiết lập cửa hàng dọc theo sông Hằng cung cấp cho người qua đường một cái nhìn vào tương lai. Chiêm tinh học và thuật xem tay là khoa học truyền thống ở Ấn Độ, nhưng nhiều người lợi dụng sự cả tin của công chúng để kiếm tiền nhất là nhân dịp lễ hội lớn như thế này.

Về phương tiện vận chuyển trong suốt lễ hội thì lạc đà được sử nhiều nhất vì trong cát mềm, xe hơi, xe tải, và thậm chí cả xe ngựa cũng dễ bị mắc kẹt vì vậy lạc đà, một con thú khỏe mạnh của gánh nặng, được sử dụng ở Ấn Độ nhiều thế kỷ để vận chuyển hàng hóa khoảng cách dài và thông qua các địa hình khó khăn, là người anh hùng thầm lặng của Kumbha Mela  vì tất cả các đồ vật, củi, lều bạt, thực phẩm đều phải sử dụng đến lạc đà. ( http://nguyenhuepy.blogspot.com/ ).
Xin theo dõi tiếp bài 11. dienbatn giới thiệu.

Share:

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 9.

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.
Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
6/Thần Indra. 

  Thủ lĩnh các vị thần trong hệ thống Hindu là Indra –Thần Mưa, Hán gọi là Đế Thích. Cần nhớ rõ Indra chỉ là thủ lĩnh của các Deva (bán thần) chỉ cai trị cung Trời (Svargaloka- heaven); thấp hơn God (Thần), và ba vị thần tối cao Trinity là các God cai trị cả vũ trụ: Shiva, Vishnu và Brahman.
Thần Indra là một vị thần sấm sét.Là một trong nhưng vị thần tối cao của đạo Hindu (Ấn Độ).Theo truyền thuyết thần này là con của thần Trời và thần Đất.Sau khi được sinh ra nhờ uống được thứ rượu thần là Soma thần bổng dưng cao lớn và có sức mạnh khủng khiếp làm cho cha mẹ mình quá sợ nên bỏ chạy mãi chạy mãi nhưng lại chạy theo 2 hướng khác nhau nên Trơi và Đất mới cách xa nhau như ngày hôm nay.Còn khoảng không gian to lớn thì lại thuộc quyền cai quản của thần Indra.Thần Inrdra ngoài ra còn được xem như là một vị thần chiến tranh.Những người chiến binh thời xưa rất tôn thờ vị thần này. Theo mô tả đây là một vị thần được xem là Vua các vi thần.Thần có một ngàn con mắt(do bị trúng lời nguyền của đạo sĩ Gotama).Thần xuất hiện với con vật cuõi là bạch tượng (1 con voi trắng),binh khì của thần là Kim cương chữ. (Indra), thần Mặt Trời trong tôn giáo Vêđa (Ph. Védisme) nguyên thuỷ của Ấn Độ. Trong Kinh Rigvêda (Rigveda), Inđra đã được coi là "vị thần của các thần", tượng trưng cho thần Sấm sét, thần Chiến tranh. Trong thần thoại, Inđra có sức khoẻ phi thường, đã lập được nhiều chiến công, nổi tiếng nhất là việc giết con rồng hạn hán Vitra, đem lại nguồn nước cho hạ giới. Biểu tượng hình người của Inđra trong mĩ thuật là vị thần có nước da đỏ rực, nhiều cánh tay dài, mang lưỡi tầm sét, cưỡi voi trắng, trấn ở phương Đông. Khi đạo Hinđu (Hindu) ra đời, vai trò của Inđra đã dần dần bị lu mờ, nhường chỗ cho tam vị Brahma (Brahmã), Visnu (Vishnu) và Siva (Shiva).

" Trong sử thi Ấn độ Ramayana viết về chuyện nàng Ahalia như sau :
Có một lần, đức Brahma đã tạo ra một người đàn bà và đặt tên cho nàng là Ahalia (có nghĩa là đẹp tuyệt vời). Thần Indra vốn là vị thần cao cả nhất trong các thần, say mê vẻ đẹp của nàng và chỉ đinh ninh rằng chỉ có mình là người xứng đáng được lấy nàng làm vợ mà thôi. Ðức Brahma biết được tham vọng và thói kiêu căng của Indra, đã bỏ qua không nhắc đến ông ta, mà tìm đạo sĩ Gôtama, giao phó cô gái cho Người. Cô lớn lên trong sự chăm sóc của Người và khi đã đến lúc thì đạo sĩ đem trả cô ta cho đức Brahma và xin đức sáng thế cho phép cưới nàng luôn.
Ðức Brahma đánh giá cao tấm lòng tinh khiết và tư tưởng trong sáng của vị đạo sĩ (đầu óc của người chưa một lần gợn những ý nghĩ tầm thường về xác thịt) và phán : “Con hãy lấy nó đi vì nó xứng đáng là vợ của con …. ”
Họ đã sống hạnh phúc bên nhau!
Thần Indra vẫn không chịu từ bỏ ảo vọng xấu xa đối với Ahalia và đã thường tới gần lều cỏ của đạo sĩ Gôtama dưới nhiều lốt hóa thân khác nhau, đợi có dịp là ngắm nhìn và thưởng thức vẻ đẹp của khuôn mặt và dáng hình Ahalia; thần cũng theo dõi thói quen của đạo sĩ và biết hàng ngày đạo sĩ thường rời lều vào lúc bình minh đi ra sông để tắm và để cầu kinh khoảng hai tiếng đồng hồ. Không thể chịu nỗi một mối tình hờ hững như thế này nữa, Indra quyết định dùng mưu mô lừa bịp để chiếm trái tim nàng.
Một hôm, khó lòng đợi cho đến giờ đạo sĩ ra đi theo thường lệ, thần đã giả tiếng gáy của con gà trống đánh thức đạo sĩ dậy. Vị đạo sĩ tưởng trời đã sáng nên đi ra sông. Bấy giờ, Indra mới đội lốt đạo sĩ chui vào lều và làm tình với Ahalia. Nàng thuận tình, nhưng chẳng mấy chốc đã nhận ra kẻ đang hưởng thụ với mình là một tên lừa bịp, nhưng nàng không thể làm gì được nữa rồi. Ngay lúc đó, đạo sĩ quay về, trong lòng tự nhiên cảm thấy có điều gì đó không hay và bắt gặp cả hai trên giường. Ahalia đứng sang một bên, vừa xấu hổ vừa hối hận. Indra vội biến thành con mèo (là con vật dễ nhập vào và dễ thoát ra nhất), tìm cách chuồn đi. Ðạo sĩ hết nhìn con mèo đến nhìn người đàn bà và không hề thất vọng.
Ông chận con mèo lại và nói :“Này mèo, ta biết ngươi rồi, tính đam mê đến ám ảnh đối với giống cái là tai họa của ngươi. Như vậy sẽ có hằng nghìn dấu vết của giống cái phủ lên thân thể ngươi để cho mọi người trên khắp cõi trần có thể hiểu được đầu óc ngươi luôn luôn có gì đang thực sự diễn ra trong đó”.
Những lời này vừa thoát ra khỏi môi đạo sĩ thì lập tức hàng nghìn bộ phận sinh dục của người phụ nữ hiện lên trên khắp thân thể của Indra. Thật không có gì xấu hổ nhục nhã hơn nữa đối với tên Indra kiêu căng và hay làm dáng này.

Sau khi Indra rút lui, trở về thế giới của hắn, đạo sĩ nhìn vợ và nói : “Thân thể của nàng đã phạm vào tội lỗi. Hãy để cho cái thân thể đó cứng lại thành một tảng đá không có hình thù rõ ràng, ngay ở nơi nàng…”.
Tình cảnh của Indra lúc đầu đã trở thành một trò chơi trong cõi trần này, nhưng về sau thì thấy rõ là bi thảm quá. Hắn luôn ở trong bóng tối và chui rúc trong các xó xỉnh, không bao giờ dám ra trước mặt người khác cả đàn ông lẫn đàn bà. Ðiều đó đã làm động lòng các vị thần, hơn nữa, những nhiệm vụ trăm hình nghìn vẻ trong thế giới khác nhau đều phải ngưng lại, nên họ đã kéo một đoàn đến gặp đức Brahma, xin  Người can thiệp giúp với Gôtama.

Bấy giờ, nỗi bực dọc trong lòng đạo sĩ cũng đã nguôi rồi và đạo sĩ đã đáp lại lời kêu gọi của đức Brahma: “Cho một nghìn thứ cộng thêm vào dáng dấp của Indra đều trở thành mắt cả”. Về sau do đó mà Indra đã trở thành “vị thần nghìn mắt”.
" Một trong hai sử thi vĩ đại nhất của Ấn là Ramayana, trong sử thi này nhân vật phản diện chính là Quỷ Vương Ravana. Đây là con quỷ có mười đầu, không việc ác nào mà không làm kể cả hãm hiếp cả con dâu của hắn là Rambha. Rambha, sau khi bị làm nhục, đã rủa Ravana rằng: “Nếu ông còn xâm phạm tới bất kỳ một phụ nữ nào mà không được cô ta ưng thuận, toàn bộ mười cái đầu của ông sẽ nổ tung ngay lập tức.
Thần Indra vốn là vị thần cao cả nhất trong các thần, một nhân vật khôn ngoan chỉ sau đức Brahma chỉ vì nỗi đam mệ nhục dục mà thân bại danh liệt."

Cái triết lý lời nguyền của đạo sĩ Gôtama rằng "…. sẽ có hằng nghìn dấu vết của giống cái phủ lên thân thể ngươi để cho mọi người trên khắp cõi trần có thể hiểu được đầu óc ngươi luôn luôn nghĩ đến …. " và sau đó là "…cho một nghìn thứ cộng thêm vào dáng dấp của Indra đều trở thành mắt cả " cũng cho chúng ta thấy có sự bàn bạc đan kết nhau giữa nỗi đam mê nhục dục và khôn ngoan sáng tạo, đó là bản chất thực của con người, vấn đề ở đây là kiềm chế được cái bản năng đó hay không mà thôi.
Quan hệ tình dục là một nhu cầu bình thướng ở trong một tình trạng bình thường và có sự ưng thuận của người nam nữ như Gôtama và Ahalia.
Bản năng tính dục tự nó không phải là một đòi hỏi bắt con người phải thực hiện cho bằng được. Nó không phải là một nhu cầu khẩn cấp, đó là một vấn đề tâm lý mà cảm xúc và chúng ta có thể chế ngự được bằng sức mạnh tinh thần.
Giao hợp là cách duy nhất để biểu hiện những cảm xúc và khả năng tình dục, nó chỉ trọn vẹn hoàn hảo, đầy dủ và hạnh phúc nếu được thực hiện trong một tình trạng chín muồi vềphương diện cá nhân và xã hội và là sự ưng thuận của cả hai phía. Nàng Ahalia là nạn nhân của việc cưỡng dâm.
Giao hợp chưa chắc là cách chứng tỏ tình yêu, có thể biểu lộ tình cảm bằng cách khác.
Sự kiềm chế giúp con người có cơ hội thăm dò những phương thức sáng tạo trong việc bày tỏ tình cảm và khả năng tình dục của mình.
Sự kiềm chế còn có nghĩa là đợi để chọn một người thời gian và nơi chốn thích hợp cho quan hệ tình dục, sư lựa chọn có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nó có thể là sự lựa chọn lâu dài cả một đời người hoc cho đến một thời điểm thích hơp cho việc quan hệ tình dục.
Sự kiềm chế không có nghĩa là mình không còn là người đam mê nhục dục hoặc gợi dục.
Sự kiềm chế không chỉ là đơn giản từ chối hay đợi đến khi kết hôn hay còn quá trẻ để quan hệ tình dục.
Tuổi mới lớn, thời gian trưởng thành thời kỳ mà sự tăng trưởng thân xác về mặt sinh dục đã hoàn chỉnh đó là thời kỳ mà những đòi hỏi tình dục rất mạnh, cho nên sự kiềm chế bản năng tình dục cần phải được giáo dục, lưu ý, tránh những quan hệ bừa bãi, tật thủ dâm ….
Những cảm xúc và khát vọng tình dục trong chúng ta ai cũng có, nhưng việc Indra làm đã đưa lại những hậu quả khó lường và thảm khốc một ô nhục suốt đời chỉ vì vị Thần thông minh một ngàn mắt này chưa học được cách kiềm chế bản năng tình dục." -BS HỒ ÐẮC DUY.
" Đế Thích Thiên là vị thần đứng đầu chư thiên của một trong các tầng trời, gọi là trời Đế Thiên (hay Đao Lợi/Tavatimsa/S:Traiyastrimsas). Kinh thành Amaravati tráng lệ của Đế Thích thuộc tầng trời này, tọa lạc trên núi Meru -  ngọn núi trung tâm theo vũ trụ luận Hindu Ấn Độ. Đế Thích Thiên gốc là thần Sakra thời Vệ Đà và là thần Indra trong Ấn giáo .
Sau đó, theo sự lan tỏa của văn hóa Hindu và Phật giáo, Indra được thờ tự ở nhiều cộng đồng thuộc các quốc gia châu Á với những tôn danh khác nhau: Thagyanin (Miến Điện), Phra In (Thái Lan), Preah Intraa (Tamil), Đế Thích Thiên (Trung Quốc), Taishakuten (Nhật Bản)… Ở xứ ta, Đế Thích Thiên - thường gọi tắt là Đế Thích - được thờ tự ở một số tự quán ở miền Bắc và xuất hiện trong truyện cổ tích như một kỳ thủ vô địch…
Đế Thích Thiên Indra trong tín niệm Hindu.
Indra, Ấn Độ.
Indra là người chỉ huy/thủ lĩnh của các chư thiên (Devas) hay các á thần. Thần ngự ở kinh thành Amaravati lộng lẫy và vị chúa tể của cõi trời Svargaloka, thiên đường của Hindu giáo. Indra là vị thần của mưa bão và sấm sét. Là một người chiến binh vĩ đại, một biểu tượng của sự can đảm và sức mạnh, thần dẫn dắt các Deva (chư thiên) và các nhiên thần như Agni (lửa), Varuna (nước) và Surya (mặt trời); đồng thời thần luôn lãnh đạo các cuộc chiến chống lại những kẻ đối lập với các thần, những yêu ma như asura. Bên cạnh việc là một vị thần chiến tranh, thần cũng được đề cập như là người bảo hộ phương hướng, biểu trưng cho phương đông. 
Trong Rig-Veda, thần được gọi là Sakra, chiếm vị trí thứ nhất trong hàng ngũ 33 vị thần. Indra là một vị thần “quốc gia” của người dân Ấn Độ thời Veda và có đến 250 bài tụng ca dành riêng cho thần được ghi chép trong Rigveda .
1- Mối liên hệ với những vị thần khác.
Thần Indra là vị thần tối cao, người anh em sinh đôi của thần Agni. Và thần cũng được đề cập như là một Aditya, người con trai của Aditi. Thần cư ngụ trên núi Meru nơi cõi trời. Dữ liệu khác lại cho rằng thần Indra là người anh em với Surya.
Thần được tôn vinh như là đấng tạo hóa, người nâng bầu trời, như một vị thần của khí quyển, chi phối thời tiết và phân phối mưa. Một truyện thần thoại cho rằng thần đã tìm kiếm và giải thoát cho những con bò cái (được nhận biết với Ushas-bình minh/rạng đông), chúng đã bị trộm bởi một Asura có tên là Pani/Panis, bằng cách phá tan hang động Vala, bị chắn bởi một hòn đá. Asura Pani/Panis đã bị chính thần giết chết, do đó mà thần còn có tên gọi khác là Vala-bhid . 
Và Indra cũng đã giết chết Vritra hay Ahi để giải thoát cho những dòng sông, thần tung ra những tia chớp, sấm sét, và liên tiếp chiến đấu với nó, con quỷ của hạn hán và thời tiết khắc nghiệt, để buộc nó phải trút mưa xuống. Nhưng khi thần giết chết con quỷ Vritra - một Bà La Môn, Indra đã cố che đậy điều này và tiến hành các cuộc cúng tế cho đến khi tội lỗi được gột sạch. Bhagavata Purana biểu thị thần như kẻ đã phạm tội giết một vị Bà-la-môn, bị ám ảnh bởi tội ác đó, nhân cách hóa là Chandali.
Câu chuyện này được kể chi tiết trong thần thoại tiền Veda như sau: Vritra, một asura, đã đánh cắp nước trên toàn thế giới và Indra đã uống rất nhiều rượu Soma để “lấy sức” chuẩn bị chiến đấu với con rắn khổng lồ này. Thần đã vượt qua 99 pháo đài của Vritra, … vặn con rắn yêu quái và mang nước trở lại trái đất. Trong một dị bản khác, Vritra được Tvastar tạo nên để trả thù thần Indra vì tội đã giết chết người con trai của mình là Trisiras, một người Bà La Môn sùng đạo và càng ngày càng sở đắc được nhiều quyền năng khiến cho thần Indra rất lo lắng. Vritra đã chiến thắng và nuốt lấy Indra, nhưng những vị thần khác đã buộc nó phải nôn thần Indra ra. 
Indra (vua của các vị thần) cưỡi 3 đầu voi Airavata của mình .
Cuộc chiến tiếp diễn và thần Indra đã biến đi mất. Thần Vishnu và các Rishis đã thỏa thuận tạm ngừng chiến, và Indra đã thề rằng thần sẽ không tấn công Vritra với bất cứ cái gì được làm bằng kim loại, gỗ, đá, cũng như bất cứ cái gì khô hay ướt, cả ban ngày lẫn ban đêm. Cuối cùng, Indra đã sử dụng bọt từ sóng nước đại dương để giết Vritra vào lúc chạng vạng.
Dị bản khác, được thuật lại trong Mahabharata thì Vritra là một người Bà-la-môn nắm giữ quyền năng siêu nhiên, trở nên đểu giả và là mối nguy hiểm cho các vị thần. Indra can thiệp và đã xoay/vặn hắn sau một cuộc chiến đầy cam go. Một nữ thần yêu ma xấu xa tên là Brahmannahatya (hiện thân tội lỗi của kẻ giết người Bà La Môn) lưu xuất từ xác chết của Vritra, đã truy kích Indra, khiến thần phải lẩn trốn trong một hoa sen. Indra đã đến cầu xin thần Brahma tha thứ cho tội lỗi giết người Bà La Môn.
Thần cũng thường được biểu trưng như là sự hủy diệt “những pháo đài đá bảo vệ thành đô” của các Asura hay những yêu ma của khí quyển và của Dasyus hoặc những người Ấn bản địa. Trong chiến tranh, thần đôi khi được những đội quân Maruts hộ tống, cùng sự tham dự của người bạn - thần Vishnu. Thần được chăm sóc và phục vụ bởi các Maruts (và Vasus), những đứa con của Diti (người mẹ của những yêu ma). 
Thần Indra đã giết chết những đứa con độc ác của Diti trước, vì vậy Diti luôn ước mong các con trai của mình sẽ hùng mạnh hơn Indra, do đó Diti đã mang thai trong một thế kỷ, thực hành ma thuật để hỗ trợ cho những đứa con đang được hình thành trong bào thai. Khi thần Indra phát hiện ra điều này, thần đã ném lưỡi tầm sét vào Diti và làm bào thai vỡ ra làm 7 hay 49 phần; mỗi phần tái sinh thành một cá thể hoàn chỉnh, và phát triển thành những Maruts, một nhóm các vị thần giông tố, kẻ có sức mạnh thua kém hơn Indra. Câu chuyện này và câu chuyện thần đã cắt đứt đôi cánh của những ngọn núi bằng tia sét của mình do tội bất trị và gây rối của chúng được ghi lại trong các tập cổ tích thần kỳ Puranas.
Ngoài ra, thần đã hứng chịu sự phẫn nộ của nhà hiền triết nóng tính Dur-vasas bởi thần đã khinh thường chiếc vòng hoa mà nhà hiền triết trao tặng và bị nguyền rủa là toàn bộ quyền lực thống trị của thần sẽ bị chế ngự và tiêu tan. Thần đã bị những Daityas đánh bại hoàn toàn. Đúng hơn là thần bị những liên minh giữa người con trai của Ayus và cháu trai của Pururavas đánh bại: thần bị yếu đi trong một tình cảnh đáng thương khi bị buộc phải khẩn cầu ít bơ hiến tế trong một trăm cuộc tế lễ của các vị thần. Vui mừng bởi sự chiến thắng, những kẻ chinh phục đã xao lãng nhiệm vụ của mình và vì vậy họ dễ dàng trở thành con mồi cho thần Indra khi thần đã lấy lại quyền lực của mình .
Indra
Rig-Veda thường ám chỉ thần là Sakra: một người hùng mạnh. Trong thời kỳ Veda, số lượng các vị thần được xác định là 33 và thần Indra là vị chúa tể của họ. (Một vài văn bản sớm tiền Rigveda như Khilas và Veda và sau đó là Brihad-Aranyaka Upanishad liệt kê các vị thần là 8 Vasus, 11 Rudras, 12 Adityas, Indra và Prajapaty). Do là vị chúa tể của Vasus, Indra cũng được gọi là Vasava.
Trong thời Vedanta, Indra trở thành nguyên mẫu của tất cả các chúa tể và là một vị vua được gọi là Manavendra (Indra hay chúa tể của loài người) và Rama, người anh hùng của sử thi Ramayana, được biểu thị như là Raghavendra (Indra của thị tộc Raghu). Do đó nguồn gốc của Indra cũng được thể hiện như Devendra (Indra của chư thiên/Devas). Tuy nhiên, Sakra và Vasava cũng được dùng riêng cho nguồn gốc Indra. Dù cho những văn bản ngày nay thường tán thành tên gọi Indra, các văn bản truyền thống Hindu (Veda, sử thi và chuyện cổ tích thần kỳ Ấn Độ) sử dụng Indra, Sakra và Vasava thay thế cho nhau và thường coi các tôn danh ấy là một.
Số lượng các bài tụng ca đã đề cập đến thần Indra nhiều hơn hẳn những vị thần khác của Veda, ngoại trừ thần Agni. Thần được sùng kính bởi đặc tính ban phúc như làm mưa, nguyên do của sự phì nhiêu, và thần được kính sợ vì là người tạo ra những trận bão khủng khiếp và chi phối sấm sét. 
Nhiều đoạn của Rig-veda cho thấy chức năng và thuộc tính thần thánh cao nhất được gán cho thần. Bộ ba các vị thần - Agni, Vayu và Surya - giữ địa vị cao trong các vị thần và thần Indra thường nắm giữ vị trí của thần Gió Vayu. Trong các tập cổ tích thần kỳ Ấn Độ (Purana) và một vài phần của Veda, như những nhận xét của Dr. Muir, ý niệm về thần Indra được thể hiện là rất vĩ đại và cao quý - thần Indra được ban cho tính chất anh hùng, phần lớn thường có đặc điểm ngang tàng, đa tình; tại một vài lần khác, thần cư xử suồng sã, và các chi tiết dông dài kể về việc Indra nghiện rượu soma đã không chỉ hạ thấp địa vị vốn có của thần mà còn gây ra những khoái lạc nhục dục rất dung tục. 
Thậm chí danh tiếng và vai trò của thần không được thừa nhận trong Hindu giáo vào thời kỳ sau với sự nổi lên của tam vị nhất thể (Trimurti).Trong những thần thoại sau này, thần Indra rơi xuống hàng thứ hai. Thần là thuộc cấp của bộ ba tam vị nhất thể, nhưng lại là thủ lãnh của tất cả các thần.
2- Mối quan hệ gia đình .
Thần Indra có một người vợ tên là Indrani được viện dẫn trong số các nữ thần. Trong Satapatha Brahmana, Indrani được coi là người vợ yêu quý của thần Indra và cũng là mẹ của Jayanta và Jayanti. Cô còn được gọi là Sachi/Shachi. Indrani được đề cập một vài lần trong Rig-veda, và được cho rằng là người phụ nữ may mắn nhất “vì người chồng sẽ không bao giờ chết vì tuổi già”. Trong Taittiriya Brahmana kể rằng thần Indra đã chọn người vợ cho mình từ cuộc cạnh tranh giữa các nữ thần, và Indrani đã vượt lên trên tất cả nhờ sự khiêu gợi của mình. Trong sử thi Ramayana và tập truyện cổ tích thần kỳ Puranas, Indrani là con gái của Daitya Puloman và cô được đặt tên theo cha mình là Paulomi/Pulomaja. Indrani bị thần Indra cưỡng đoạt, thần đã giết cha cô để giải thoát khỏi lời nguyền. Theo sử thi Mahabharata, nhà vua Nahusha đã trở nên phải lòng Indrani, và cô đã rất khó khăn để thoát khỏi hắn. Indrani không bao giờ nhận được sự tôn kính như một nữ thần.
Ngoài ra thần Indra còn là cha của Arjuna (với Kunti), Jayanta, Midhusa, Nilambara, Khamla, Ribhus, Rsabha. Thần cũng được cho là cha của Devasena (vợ của thần chiến tranh Skanda/Kartikeya; sau Skanda trở thành Hộ pháp Vi Đà của Phật giáo).
3- Trú xứ
Thần sống ở cõi trời Svarga/Swarga trong những đám mây xung quanh núi Meru, thủ phủ là Amaravati: cung điện của thần “Vaijayanta” và các khu vườn của thần là Nandana, Kandasara hay Parushya. Những chiến binh thường được ngự ở cung điện của thần sau khi chết, nơi đó họ sống cuộc đời hoan lạc, không hề mảy may gặp phải việc buồn bã, đau đớn hay sợ hãi. Họ có thể nhìn ngắm những vũ nữ Apsara và nhạc công thiên đình Gandharva nhảy múa và vui đùa. Các nhiên thần, những nhà hiền triết cõi trời, những vị vua vĩ đại và các chiến binh đều trú ngụ nơi cung điện của thần.
4- Hình tướng
Thần thường được miêu tả với một màu hung đỏ hay vàng kim và có cánh tay dài khổng lồ; “nhưng hình thức là bất tận, và thần có thể mang rất nhiều hình dáng”. Một thể thơ trong Atharva Vedic cho thấy “Indra có thể thay đổi nhanh chóng trong tất cả các hình thức của sắc vàng kim” . Thần cưỡi trên cỗ xe bằng vàng sáng chói được kéo bởi đôi ngựa hung hay hung đỏ với chiếc bờm và lông đuôi mềm mượt. Trong RV 1.65, “Sakra, người thanh lọc (của tín đồ), và có tài sử dụng ngựa, là một người phi thường và có thân thể sắc vàng kim”. Rigveda cũng cho rằng Indra “nhảy múa cùng các vị thần, mặc quần áo thơm, má vàng kim cưỡi trên cỗ xe bằng vàng” . Một đoạn văn nói rằng thần mang màu nâu và vàng . “Thần với mớ tóc xù, sạch tinh tươm, có sắc nâu và vàng kim, được yêu quý bởi tất thảy, người đặc biệt thích rượu soma hơn tất cả các thần linh”. 
Taishakuten, Nhật Bản .
Đế Thích Thiên, chùa Vua hay Đế Thích Quán, Hà Nội.
Vào thời kỳ tiền Veda, thần cưỡi trên con voi trắng, lớn, có 4 ngà được gọi là Airavata (con voi trắng có bốn ngà, bảy vòi). Thần có 4 tay, hai tay cầm giáo/thương và hai tay cầm móc nhọn để thúc voi. Cũng có lúc thần cưỡi ngựa Uchchaihsravas/ Uchchaih-shravas (con ngựa bay bảy đầu, lông trắng) và cỗ xe của thần Vimana, người đánh xe Matali.
Vũ khí của thần là lưỡi tầm sét/vajra mang nơi tay phải, lưỡi tầm sét “Vajrayudha” được tin rằng được làm từ xương sống của nhà hiền triết Dadhichi để giết những asuras. Thần còn sử dụng tên, một chiếc móc lớn, và một cái lưới, nó được cho rằng sẽ mắc vào chân của kẻ thù. Trong thần thoại Hindu, cầu vồng Sakra-dhanus/Indradhanus được gọi là cây cung của thần Indra, và thanh gươm Paran-ja."
5- Soma
Soma là loại rượu thiêng, thức uống mà thần đặc biệt ưa thích; uống một hơi soma, bị kích thích bởi sự phấn khích, thần tiến về phía trước chiến đấu với kẻ thù và hoàn thành sứ mạng.
Việc yêu thích soma được thể hiện trong sử thi Maha-bharata. Truyện kể rằng thần bị nhà hiền triết Chyavana buộc phải chia sẻ rượu lễ soma cho Aswins và niềm khoái lạc của thần được phát triển thành tính cực kỳ dâm đãng.
Thần Indra đã dụ dỗ Ahalya, người vợ của Gautama Maharishi. Hiền triết Gautama đã thốt ra lời nguyền rủa trừng phạt Indra. Lời nguyền này đã khiến cho thần Indra mất đi sự mạnh mẽ của mình, còn vợ nhà hiền triết Ahalya cũng trở nên vô hình trong mắt mọi người. Còn theo Maha-bharata thì thần đã quyến rũ Ahalya và nhà hiền triết Gautama đã nguyền rủa bằng cách đóng dấu một ngàn bộ phận sinh dục của nữ giới trên người thần, vì vậy thần được gọi là Sa-yoni; nhưng về sau những con dấu này biến thành những con mắt, và do đó thần có tên gọi là Netra-yoni và Sahasraksha “một ngàn con mắt”.
Trong sử thi Ramayana, nó lại liên quan đến Ravana, vị vua của đám La sát Rakshasa ở Lanka (Sri Lanka), đã gây chiến chống lại thần Indra nơi cõi trời của thần. Thần Indra đã bị đánh bại và người con trai của Ravana là Megha-nada đã chiếm lại xứ Lanka. Nhờ hành động dũng cảm này mà Megha-nada có được danh hiệu Indra-jit, có nghĩa: “người đánh bại Indra”. Thần Brahma và các vị thần đã hòa giải nhằm giải thoát cho thần Indra bằng cách ban đặc ân bất diệt cho kẻ chiến thắng. Thần Brahma sau đó nói với thần Indra rằng thất bại này là sự trừng phạt tội đã quyến rũ Ahalya.
Đền thờ Indra.
Đặc tính phóng đãng của thần cũng được thể hiện bởi việc thần thường gửi những tiên nữ cõi trời đến quyến rũ các nam thần để làm họ xao lãng việc thiền định sám hối - một công phu tu tập khiến họ có thêm được những đặc ân to lớn có thể thách thức đối với quyền năng của thần .  ( Huỳnh Thanh Bình .).
Xin theo dõi tiếp bài 10. dienbatn giới thiệu.
Share:

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO. BÀI 8.

CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO.


Lời tựa : Lẽ ra các bài tiếp theo trong mục : MẬT TÔNG - ĐẠO PHÁP - HUYỀN MÔN là những bài trong tập 2 cuốn THẦN THÁNH TRUNG HOA do bác Nhược Thủy dịch. Tuy nhiên  dienbatn đăng tiếp loạt bài  CÁC VỊ THẦN ẤN ĐỘ TRONG TÍN NGƯỠNG BÀ LA MÔN VÀ HINDU GIÁO để thay đổi không khí . Loạt bài viết này , dienbatn biên soạn lại theo những tư liệu sưu tầm được, những tư liệu đã đăng trên internet . Do vậy có thể có nhiều đoạn không ghi nguồn xuất xứ . Mong các tác giả lượng thứ khi dienbatn trích dẫn mà không ghi nguồn. dienbatn chỉ biên tập lại thành hệ thống làm tư liệu của mình và giúp các bạn tư liệu khi cần khảo cứu. Xin chân thành cảm ơn các tác giả đi trước. Thân ái . dienbatn.
3. Các vị thần khác .
4/ Thần Kârttikeya - Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ , đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.



Kartikeya ( Tamil : கார்த்திகேயன், முருகன், வடிவேலன்) ( / ˌ k ɑr t ɪ k eɪ j ə / ), cũng được biết đến như Skanda, Kumaran, Subrahmanyam, Murugan, Karuna, Kumara Swami và Subramaniyan là vị thần chiến tranh của Hindu.Murugan thường được gọi là "Tamil Kadavul" (có nghĩa là "Thiên Chúa của người Tamil") và được tôn thờ chủ yếu ở khu vực có Tamil ảnh hưởng, đặc biệt là miền Nam Ấn Độ , Sri Lanka , Mauritius , Indonesia , Malaysia , Singapore và đảo Reunion . Sáu ngôi đền quan trọng nhất của ông ở Ấn Độ là những đền Arupadaiveedu , nằm ​​ở Tamil Nadu . Trong Sri Lanka , Ấn Độ giáo cũng như Phật tử tôn kính lịch sử thiêng liêng đền Nallur Kandaswamy tại Jaffna và Đền Kataragama nằm ở phía nam sâu. Người Hindu ở Malaysia cũng cầu xin Chúa Murugan tại Batu Caves , nơi Thaipusam được tổ chức với sự vĩ đại.
Giống như hầu hết các vị thần Hindu, Subrahmanya được gọi bằng nhiều tên khác, bao gồm cả Senthil, Velan, Kumaran (có nghĩa là "hoàng tử hoặc  hoặc một con trẻ '), Swaminatha (nghĩa là thông minh), Saravana, Arumugam hoặc Shanmuga (ý nghĩa với sáu mặt'), Dandapani , Guhan hoặc Guruguha (có nghĩa là "hang động-dweller '), Subrahmanya, Kartikeya và Skanda . Ông cũng được biết đến như Mahasena và các triều đại Kadamba vua lạy Ngài bằng cái tên này. Trong nhà nước Ấn Độ Đông Bắc của Meghalaya , trong số các tín đồ người Kartikeya được biết đến như là 'Kâtkâ Dīyāʊ'.
Ông kết hôn với hai vị thần, Valli , con gái của một bộ tộc trưởng và Deivayanai (còn gọi là Devasena), con gái của Indhra. Trong thời gian sống của ông, thần Murugan cũng được coi là Kumaraswami . Muruga cưỡi một con công và mang một cây cung trong trận chiến. Cây thương gọi Vel ở Tamil là một vũ khí có luôn đi theo Thần. Các vũ khí đã được trao cho ông bởi mẹ của mình, Parvati , và thể hiện năng lượng và sức mạnh của mình.
Con trai lớn của cặp vợ chồng Shiva- Pârvatĩ là Kârttikeya đã có công diệt được quỷ Târaka, đem lại yên vui cho thế giới thần linh và được thờ làm thần chiến tranh.Kartikeya, đứa con thứ hai của chúa tể Shiva và Parvati hoặc Shakti, ngài được biết đến với một số cái tên như là Subramaniam, Sanmukha, Shadanana, Skanda và Guha. Ở phía Nam của Ấn Độ, ngài là một vị thần được sùng bái và được biết với tên Murugan. Ngài là hiện thân của sự hoàn hảo, một vị lãnh đạo dũng cảm của lực lượng quân đội thần thánh, và là một vị thần chiến tranh, người đã tạo ra ác quỉ, đại diện cho cái xấu và khuynh hướng tiêu cực của con người. Kartikeya còn có một cái tên khác là Shadanana ( Lục diện nhân – ý nói đến 5 giác quan cộng với 1 tâm linh).

Hình ảnh 6 cái đầu còn tượng trưng cho đức hạnh toàn diện, giúp thần có thể nhìn được về mọi hướng và cản lại được tất cả các đợt công kích của kẻ thù. Những hình ảnh về 6 cái đầu của Kartikeya hướng dẫn và chỉ ra cho con người vượt qua được các cám dỗ của cuộc sống. Họ luôn luôn được cảnh giác trước những cám dỗ của những kẻ xảo quyệt và xấu xa, gồm có sáu tật xấu như: kaama (Tình dục), krodha (Giận dữ), lobha (Tham lam), moha (Sự mê muội), mada (Cái tôi) và matsarya (Sự ghen tuông). Một tay của Kartikeya cầm thương, tay còn lại thì ban phước lành cho mọi người. Thú cưỡi của ông là một con công – một con chim thánh cùng với đôi chân rắn, nó tượng trưng cho cái tôi và sự mong muốn thèm khát của con người.

Như phần trước đã viết : Shiva không thèm màng đến Parvati. Nàng buồn khổ lùi vào rừng sâu ẩn tu.  Tuyệt vọng, Shiva lầm lũi quay về ẩn cư trên núi Kailash. Sati sau đó tái sinh làm con gái của thần núi Himavan (Himalaya) với tên Uma họ là Himavati, nhưng thường được biết đến với mỹ danh Parvati (nghĩa là vô tội, thánh thiện). Kiếp này Parvati cũng lại yêu Shiva vì số phận của họ đã đan bện vào nhau. Tuy thế, Shiva đã chọn một đời sống ẩn dật, tịnh khẩu, không tiếp xúc với người ngoài. Chàng suốt ngày ở trong hang đá đắm chìm với tình yêu vô vọng dành cho Sati. Trong khi đó, cô gái xinh đẹp con gái của thần núi Himalaya lại từ chối tất cả các lời cầu hôn của các chàng trai, giữ vẹn lòng chung thủy với người duy nhất mà cô yêu từ kiếp trước. Cô chờ đợi Shiva hết năm này sang năm khác và cầu nguyện sẽ được cùng chung sống với người yêu một lần nữa. Parvati sau đó bỏ vào rừng sống đời một đạo sĩ Yogi trong khu rừng bên cạnh hang đá của Shiva. Hàng ngày nàng vào hang quét dọn sạch sẽ, trang hoàng hoa rừng khắp hang đá nhưng thủy chung Shiva vẫn không để mắt tới bất cứ ai. Thần tình yêu Kamadeva (người tương truyền đã ban Kama Sutra cho dân Ấn) muốn giúp Parvati nên lẻn vào hang dùng cánh cung bằng cây mía bắn một mũi tên tẩm mật vào người Shiva. Shiva mở bừng con mắt thần giữa trán thiêu Kamadeva ra tro. Ngọn lửa đó được sinh ra từ Shiva rất hung dữ mà ngay cả Agni, thần lửa không thể chịu đựng nổi. Sau đó ngọn lửa đã được vận chuyển theo các sông Ganga vào rừng Saravana vào một hồ Saravana Poigai. Ở đó, từ những tia lửa của đám cháy đã được sinh ra sáu người con- sáu em bé thành một vị Thần có sáu mặt, và Nữ thần Parvati đặt tên cho con Kartikeya. Vì lý do này Kartikeya cũng được gọi là Kumara, nghĩa là giới trẻ. Ông được coi là trẻ trung mãi mãi và do đó được gọi là Kumara.Khi Kartikeya lớn lên, ông được tuyên bố là chỉ huy của chư thiên. Ông được gọi là Deva Senapathi. Dưới sự lãnh đạo của ông, á thần có thể giết quỷ Banasura, Tarakasura và Pralambasura. Ông là tổng chỉ huy của quân đội bảo vệ Naradaâ € ™ s yagna và cũng tạo đường hầm qua núi Krauncha.

Kartikeya vinh danh tất cả các vị thần đã giúp trong việc loại bỏ các Rakshasas. Ông cũng thả tự do cho tất cả các vị thần đã bị cầm tù bởi Shurapadma. Các kho báu đã bị cướp phá và mang đến những nơi khác nhau đã được đưa trở lại những nơi bị cướp phá. Với sự giúp đỡ của các thần Vishwakarma, tất cả các tòa nhà, các khu vườn và thành phố bị phá hủy và đốt cháy bởi các Rakshasas được xây dựng lại. Kartikeya ngồi trên ngai vàng của thiên đường Indra một cách an toàn . Ông cũng nhìn thấy tất cả mọi người sống trong hòa bình và hạnh phúc, đi theo con đường của đức hạnh. Shiva ca ngợi lòng dũng cảm của Kumara.Đôi khi ông được miêu tả với nhiều loại vũ khí bao gồm một thanh kiếm, một cây lao, một vương trượng, một đĩa và một cây cung, mặc dù ông thường được miêu tả cầm một Sakti hoặc một cây giáo. Sáu Kartikeya được biểu hiện như là sáu cấp độ cho hành giả trong quá trình phát triển tâm linh của họ.

Trong thời cổ đại người ta tôn thờ của Kartikeya đã lan rộng hơn. Patanjali  được đề cập đến hình ảnh của mình trong các đền thờ. Các đồng tiền của các vị vua Kushan mang tên ông và ông được tôn thờ bởi các vị vua Gupta trong toàn bộ miền bắc Ấn Độ. Ông cũng là vị thần yêu thích của các triều đại vua Chalukya. Ở miền nam Ấn Độ, ông vẫn tôn thờ rộng rãi. Một số vị thần của miền Nam có liên quan đến ông, ví dụ như. Murugan (cậu bé trong trắng), Velam (spear-bearer) và Seyyavan (một màu đỏ).
Đền thờ lớn dành cho Thần Kartikeya được gọi là 'Aaru Padai Veedu' được đặt tại Pazhamudircholai, Swami Mala, Thirucendur, Thiruparankundram, Palani, Pazhamudircholai và Thiruthani. Thần Kartikeya được biết đến như Kartik ở phần phía đông của đất nước đặc biệt là ở Orissa và West Bengal. Thần Kartikeya được miêu tả với 2 phu nhân trong các đền thờ phía nam Ấn Độ - Devasena, công chúa thiên và con gái của Chúa Indra - và Valli, con gái vua săn Nambirajan của.

Hai anh em Kartikeya và Ganesha
Gia đình thần Shiva và nữ thần Parvati cùng hai con trai  Kartikeya và Ganesha. 
Kumara Purnima, được tổ chức vào ngày trăng tròn sau Vijayadashami , là một trong những lễ hội nổi tiếng dành riêng cho Kartikeya trong Odisha.Người ta tin rằng cô gái chưa chồng thờ Kartikeya vào ngày này để có được chú rể đẹp trai như Kartikeya. Kartikeya được tôn thờ trong Durga Puja ở Orissa cũng như trong các đền thờ Shiva khác nhau trong suốt cả năm. Kartik puja được tổ chức trong Cuttack cùng với các bộ phận khác nhau của nhà nước trong các giai đoạn cuối cùng của tháng Hindu của Kartik. Kartik Purnima được tổ chức với nhiều niềm vui và trong một thời trang lớn trong Cuttack, Jamadhar, Rekabibajar Quận Jajapur và các bộ phận khác trong tiểu bang.Người ta nói vị Thần này không bao giờ do dự để trợ giúp của một người hâm mộ khi được cầu khẩn.
Kartikeya thờ trong Durga Puja ở Kolkata.
Ở phía nam Sinhalese của Sri Lanka, Murugan được thờ tại ngôi đền ở Katirkāmam , nơi ông được biết đến như Kathiravel hoặc Katragama Deviyo (Lord of Katragama). Ngôi chùa này là bên cạnh một địa danh Phật giáo cũ . Truyền thuyết địa phương cho rằng Thần Murugan bước xuống trong hình hài Kataragama và đã bị bại bởi Valli, một trong các cô gái thổ dân địa phương. Sau một tán tỉnh, họ đã kết hôn. Sự kiện này để biểu thị rằng Thần Murugan có thể giúp đỡ tất cả những ai thờ phượng và yêu mến Thần, bất kể quê hương và tài sản của họ. Các đền thờ  Nallur Kandaswamy , Maviddapuram , Đền Kandaswamy và đền Sella Channithy gần Valvettiturai là ba ngôi đền quan trọng nhất trong tín ngưỡng thờ Murugan . Ngôi đền Chitravelayutha trong Verukal trên biên giới giữa Trincomalee và Batticaloa cũng đáng chú ý như là đền thờ Mandur Kandaswamy trong Batticaloa. Hầu như tất cả các ngôi chùa Phật giáo nhà một phòng thờ cho Kataragama deviyo (Murugan) phản ánh tầm quan trọng của Murugan trong Phật giáo Sinhala . Các ngôi đền chính của Murugan đang nằm ở Tamil Nadu và các nơi khác của miền Nam Ấn Độ. Chúng bao gồm các Aru  Padaiveedu  - Tiruchendur , Swamimalai , Pazhamudircholai , Thirupparangunram , Palani (Pazhani),  Thiruthani và đền quan trọng khác như Mayilam, Sikkal , Marudamalai , Kundrathur , Vadapalani , Kandakottam, Thiruporur, Vallakottai , Vayalur , Thirumalaikoil , Pachaimalai và Pavalamalai gần Gobichettipalayam . Malai Mandir , một ngôi đền nổi tiếng và phổ biến ở Delhi , là một trong số ít các các đền chuyên để thờ Murugan ở miền Bắc Ấn Độ ngoài các ngôi đền Pehowa trong Haryana .
Kartikeya trong Kartik Puja, Orissa .
5/  Thần Ganesha - Con thứ hai của Shiva và Pârvatĩ  - mình người đầu voi, được tín đồ Ấn Độ giáo tin thờ như một phúc thần, ban phát hạnh phúc thịnh vượng cho nhân loại .



Shiva Ganesha ( / ɡ ə n eɪ ʃ ə / ; Sanskrit : गणेश, Ganesa , còn được gọi là Ganapati và Vinayaka, là một trong những vị thần nổi tiếng nhất và tôn thờ nhất trong các đền thờ Hindu . Hình ảnh của ông được tìm thấy trên khắp Ấn Độ .Giáo phái Hindu tôn thờ ông bất kể thành phần xã hội. Sự sùng kính Ganesha được khuếch tán rộng rãi và kéo dài đến Jains, Phật giáo, Ấn Độ và xa hơn nữa . Thần có nhiều tài năng, dập tắt mọi trở ngại khó khăn, có quyền ban mọi điều tốt lành, thần bảo vệ bếp lửa, thần là hiện thân của thông minh và trí tuệ của thần Shiva. Thần Ganesha được hiển thị với hình ảnh thân người đầu voi và hình ảnh này đã được tôn thờ ở khắp Nepal lẫn ở Ấn Độ. Trong những cuộc họp mặt, tổ chức hoặc những lúc gia đình tụ hội về, người ta thường bắt đầu bằng những bài kinh cầu nguyện đến thần Ganesha. Và cũng trong các cuộc làm ăn, mở tiệm hoặc khánh thành một cơ sở nào, người ta cũng cho rằng sẽ không thành tựu nếu không có những buổi lễ cầu nguyện thần Ganesha. Vào dịp lễ đăng quang của nhà vua Nepal, ông cũng đến đền thờ thần Ganesha ở công trường Dubar tại Kathmandu để đảnh lễ và cầu nguyện thần Ganesha.
Mặc dù ông được biết đến bởi nhiều hình dáng, Ganesha mang hình ảnh đầu con voi là dễ dàng nhận biết. Ganesha được tôn kính như là loại bỏ các trở ngại, biểu tượng của nghệ thuật và khoa học và thiên về trí tuệ và sự khôn ngoan. Là thần của sự khởi đầu, ông được vinh danh lúc bắt đầu các nghi lễ. Ganesha cũng được gọi như là người bảo trợ của các chữ cái và học hỏi trong văn học . 

Ganesha là một vị thần đáng kính trong Ấn Độ giáo, nhân dạng của thần kỳ dị, với đầu voi mình người. Thần Ganesha là tượng trưng của tài trí, hạnh phúc và thành công. Ngài là con của thần Shiva và nữ thần Parvati.
Theo truyền thuyết Ganesha là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati. Nữ thần Parvati luôn bị thần Shiva nhìn với con mắt thèm muốn nên nữ thần đã tìm cách tự bảo vệ mình. Do đó bà đã tạo ra thần Ganesha khi Shiva đang trên đường đi săn. Khi Shiva đi săn trở về không nhận ra cơ thể nữ thần Parvati vì chúng được Ganesha che mất. Shiva rất tức tối và đã chặt đứt đầu Ganesha. Paravati cầu xin Shiva để Ganesha được sống và cho Ganesha một cái đầu mới. Để Paravati không đau khổ, Shiva đã ra lệnh chặt đầu con vật đầu tiên thần nhìn thấy gắn làm đầu cho Ganesha. Và con vật ấy là một con voi.
Parvati người đã tạo nên hình hài của thần voi Ganesha (con trai của Shiva và Parvati) từ những phần nhơ nhuốc của cơ thể bà; sau này thần Ganesha đã được ban cho sự sống nhờ nước thánh của thần Ganga. Do đó, Ganesha được xem như có hai bà mẹ—Pārvati và Gangā, và cũng vì thế nên được gọi là Dvaimātura và Gāngeya (con trai của Ganga).
Ganesh là vị Thần rất được tôn thờ, và cũng dễ nhận ra nhất, với cái đầu voi và cái bụng bự. Có ít nhất là bốn thuyết nói về nguồn gốc của Ngài.

 Thuyết thứ nhất cho rằng Shiva tự mình tạo nên Ganesh. Tuy nhiên, Ganesh quá đẹp trai, khiến vợ của Shiva cũng phải mê, làm cho Shiva nổi ghen. Shiva liền khiến Ganesh biến dạng trở thành « đầu voi, bụng bự », rồi giao cho Ganesh chỉ huy đám thị vệ lùn của mình.
  Theo thuyết thứ hai thì Ganesh sinh ra từ cáu ghét của Parvati, hay từ máu kinh nguyệt của Bà. Sau đó Parvati giao cho Ganesh trách nhiệm giữ cửa phòng mình, chủ yếu là để ngăn không cho Shiva xông vào, trong những lúc Bà không muốn. Một cách « thi vị » hơn một chút, người ta kể rằng trong lúc Parvati tắm, Shiva đòi vào, Parvati không cho, và lấy cáu ghét của mình làm nên Ganesh để ngăn chặn Shiva. Chuyện khác : Parvati đang có kinh, không muốn tiếp Shiva, liền lấy máu kinh nguyệt của mình làm nên Ganesh, vẫn với sứ mạng chặn đường Shiva. Thật ra chỉ cần ghi nhận Ganesh sanh ra từ sự ô uế bợn nhơ của người nữ.
 Khi mới sanh, Ganesh rất đẹp trai (như thuyết trước). Nhưng, trong lúc giữ cửa cho mẹ, gặp lúc Shiva xông đến đòi vào, Ganesh liền khện cho Shiva một trận không nhân nhượng. Shiva gọi Vishnu đến giúp, Ganesh khện luôn Vishnu. Rốt cuộc Brahma phải nhập cuộc, và trước thần lực của toàn thể Ba Ngôi, Trimurti, Ganesh thất thế và bị chặt bay đầu. Parvati nổi tam bành, đòi « Chúa Ba Ngôi » phải trả lại cho bà đứa con yêu dấu. Shiva, Ngôi thứ ba, xuống nước, hứa sẽ khẩn cấp ráp lại cho Ganesh cái đầu thứ nhất mà Ngài chớp được. Một con voi lò mò bước đến. Thế là Ganesh được ráp cho một cái đầu voi ! Thuyết này nhấn mạnh đến « mặc cảm oedipe » của trẻ con : bé trai yêu mẹ và ghen với bố, trong tiềm thức hình dung sự tranh chiến với bố, cũng như những hình phạt mà nó phải chịu (thiến) nếu vượt quá một lằn ranh dục tính nào đó. Thật ra, có chỗ kể rằng Ganesh đã thực sự có liên hệ xác thịt với Parvati.
  Một thuyết khác cho rằng khi Shiva chặt đứt cái đầu thứ năm của Brahma, cái đầu Đạo Sĩ, thì Ngài kiêu hãnh trưng bày « của quý » ra trước các vị phu nhân của những Đạo Sĩ cao trọng. Các Đạo Sĩ này nguyền rủa Shiva, khiến cho dương vật của Shiva rơi xuống đất, và đồng thời Shiva trở thành một con voi. Một vị Thần ráp dương vật lại cho Shiva và Shiva lấy lại hình thù cũ. Đến khi Shiva làm tình với Parvati, thì một giọt tinh dịch rơi xuống đất, hóa ra Ganesh, mang đầu voi, nhắc lại việc cha mình cũng đã từng là voi. Ở đây cần ghi nhận liên hệ giữa bản tính « voi », tượng trưng cho sự thông thái, và sự kiện bị thiến mất dương vật.
Còn một thuyết thứ tư theo đó Parvati để rơi một giọt máu kinh nguyệt của mình xuống sông Hằng (Gange). Một Nữ Quỷ nuốt giọt máu ấy, thụ thai, sanh ra Ganesh với năm cái đầu voi. Bốn cái đầu bị cắt, còn lại Ganesh với một đầu voi. Thuyết này nhắc chuyện bị cắt đầu trong thuyết thứ hai, đồng thời gợi lại chuyện Brahma với năm cái đầu và chuyện sanh ra từ máu kinh nguyệt. Một chi tiết khác, sông Gange, tượng trưng bởi Nữ Thần Ganga, nơi Parvati đặt giọt máu kinh nguyệt của mình, nằm ngay trên chính ... búi tóc của búi tóc của Shiva !

Đầu voi của Ganesh chỉ có một chiếc ngà duy nhất, phía bên phải. Biểu tượng của hai ngà voi là :  lý trí bên phải, và tình cảm bên trái. Ganesh chỉ có chiếc ngà bên phải, được coi như lý trí khắc phục tình cảm. Tuy nhiên, trong điều kiện nào vị Thần đã đánh mất chiếc ngà bên trái. Lại có nhiều thuyết.
 Ngày nọ Ganesh đang giữ cửa phòng của bố mẹ mình thì Krishna (hóa thân của Vishnu) mò đến. Ganesh ngăn lại. Krishna dùng búa rìu chặt đứt chiếc ngà bên trái của Ganesh.

            Thuyết khác. Ganesh rất tham ăn, nhất là bánh kẹo. Một hôm Ngài ăn đầy một bụng kẹo bánh, no cành hông, sau đó cưỡi một con chuột  đi chơi. Có con rắn làm cho chuột hoảng sợ nhảy dựng lên. Ganesh té bể bụng, như chúng ta thường dọa trẻ con khi chúng ăn quá nhiều kẹo bánh. Tuy nhiên Ganesh không phải là một nhóc tì cơ bản, mà là một vị Thần. Ngài liền lượm tất cả kẹo bánh tung tóe khắp nơi, nhét trở vào bụng mình, cột lại với con rắn cho chắc chắn, rồi lại … đi chơi tiếp ! Vị Thần Mặt Trăng (Chandra) và 27 bà vợ (27 vị Tinh Tú), thấy cảnh khôi hài ấy, không nhịn được, cùng nhau ôm bụng cười ngặt nghẽo. Ganesh giận dữ (như trẻ con khi bị chế diễu), bẻ một chiếc ngà của mình, chọi Mặt Trăng. Mặt Trăng buộc phải lặn mất. Mặt trăng tượng trưng cho thời gian. Không còn mặt trăng thì không thể được. Chư Thần liền đến thuyết phục Ganesh xin tha lỗi cho Mặt Trăng. Ganesh nhận lời, nhưng quy định những lúc Mặt Trăng được xuất hiện và những lúc phải khuyết đi và biến mất.

            Một thuyết thứ ba cho rằng khi Vyasa, tác giả chuyện Mahabharata thuật chuyện này lại cho Ganesh, thì vị Thần bẻ một chiếc ngà của mình để làm bút ghi lại lời của Vyasa. Với thuyềt này, Ganesh là Thần của văn sĩ và là biểu tượng của sự thông minh trí tuệ.
 Ngoài ra bụng bự của Ganesh biểu tượng cho sự thịnh vượng, nhưng cũng là sức hàm chứa vô lượng. Đầu voi to lớn, như đã nói, tượng trưng cho trí tuệ thông thái, tai to nghe nhiều hiểu rộng. Cái vòi tượng trưng cho những khả năng dặc biệt không ai có được. Chiếc vòi có thể khai thông mọi bế tắc, quật ngã cây cối, gúp vượt qua rừng rậm, nhưng cũng lại rất tế nhị, thậm chí nhặt nổi một cây kim ! Sự kiện Ganesh cưỡi chuột cũng đáng được quan tâm. Con chuột tí hon lại được gán cho Thần Voi Ganesh ! Toàn thể thế giới loài vật được coi như hiện diện trong khoảng cách giữa chuột và voi, tức là trong Ganesh (con vật được cưỡi bởi các vị Thần cũng là biểu hiện của vị Thần ấy). Ganesh tượng trưng cho sự thăng hoa từ chuột tới voi, từ nhơ bẩn ô uế đến Hiện Hữu linh thiêng cao quý, từ tâm lý trẻ con nhỏ mọn đến Trí Tuệ cao siêu không giới hạn.

 Khi nhìn cái đầu voi của Ganesh, có khi nào chúng ta tự hỏi : cái đầu ấy chứa đựng gì, nghĩ gì, ước vọng gì, nhìn cuộc sống, nhìn sự vật, như thế nào ? Làm sao ta biết được những gì xảy ra trong một cái đầu voi ? Truyền thống Ấn Độ cho rằng voi nhìn mọi thứ to gấp hai lần “sự thật”. Biểu tượng “đầu voi” buộc chúng ta phải chấp nhận rằng mỗi tâm hồn có một thế giới riêng của mình. Ngược lại, thế giới chẳng qua chỉ là một tập hợp hình ảnh nội tâm được liên kết bởi một “tiếng nói bên trong” riêng biệt cho mỗi tâm hồn. Sau này Nhà Phật cho rằng “ngoài tâm không vật, ngoài vật không tâm” … 
Lễ hội Ganesha (Ganesh Chaturthi).
Gagesh Chaturthi là một lễ hội lớn của người Hindu, đặc biệt là cộng đồng Hindu ở bang Maharashtra. Lễ hội này nhằm vào tháng Bhadra của Ấn Độ (khoảng từ 20/8 đến 22/9 TL). Năm nay lễ hội Ganesha được tổ chức từ ngày 11 đến 21 tháng 9.
Lễ hội Gagesha được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ ngày sinh của thần Ganesha, vị thần được thờ phụng phổ biến trong Ấn giáo, và cũng được xem là một trong bốn vị thần quan trọng của tôn giáo này. Ba vị khác là Brahma, Vishnu và Shiva. Thần Ganesha (tên gọi khác là Ganapati), vị thần mình người đầu voi, theo truyền thuyết, là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati.




Theo Ấn giáo, đầu (voi) của thần Gagesha tượng trựng cho tự ngã (atman), thực tại tối hậu của con người; còn thân (người) của Thần tượng trưng cho maya, là sự hiện hữu của con người nơi cõi đời trần tục. Đầu voi của Thần cũng tượng trưng cho trí tuệ, với vòi tượng trựng cho âm Om, biểu tượng âm thanh của thực tại vũ trụ. Thần Ganesha cũng được xem là vị Thần có khả năng đoạn trừ những chướng ngại, là vị Thần của may mắn, tài sản và trí tuệ.
Câu chuyện về vị Thần mình người đầu voi này được kể như sau:
Một lần nọ, nữ thần Parvati trong khi tắm đã dùng đất có được do kì cọ trên cơ thể của mình tạo nên một cậu bé. Sau đó bà giao cho cậu bé này nhiệm vụ canh giữ phòng tắm của bà. Khi thần Shiva, chồng của nữ thần Parvati lúc đi ra ngoài trở về, đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một kẻ lạ hoắc không biết ở đâu tới đã ngang nhiên chận cửa không cho mình vào. Đùng đùng nổi giận, thần Shiva đã chặt đứt đầu cậu bé. Khi hay biết sự việc, nữ thần Parvati vô cùng buồn đau. Để an ủi vợ, thần Shiva bèn phái đội quân của ngài đi lấy đầu của bất cứ con vật nào mà họ gặp nếu con vật đó đang ngủ mà mặt quay về hướng bắc. Đội quân của thần đi tìm, thấy một con voi con đang ngủ thì chặt đầu mang về. Thần Shiva sau đó gắn đầu voi vào thân hình cậu bé, hồi sinh lại mạng sống và giao cho cậu nhiệm vụ lãnh đạo đội quân của mình. Cậu bé này do đó có tên là Ganesha (ganesah có nghĩa là người cai quản hay chúa tể của một nhóm). Và thần Shiva cũng ban cho cậu bé thêm một đặc ân, rằng dân chúng sẽ thờ phụng và đọc tên của cậu bé này trước khi thực hiện một công việc nguy khó. Đó là những gì được mô tả trong Shiva Purana.

Trong Brahma Vaivarta Purana thì câu chuyện được kể rằng: thần Shiva khuyên vợ mình là nữ thần Parvati nên chay tịnh một năm để cầu thần Vishnu ban cho họ một đứa con. Nữ thần Parvati làm theo lời chồng và ước nguyện của họ đã trở thành hiện thực. Khi cậu bé chào đời, các thần linh ở khắp nơi đã tụ hội về để chúc mừng và ngắm nhìn cậu bé. Thần Shani, con trai của thần Surya (thần Mặt trời) cũng có mặt nhưng không chịu ngắm nhìn đứa bé này. Thần Parvati thấy lạ thì hỏi nguyên cớ; thần Shani bèn nói rằng nếu ngài nhìn vào cậu bé thì đầu cậu bé sẽ lập tức rơi lìa khỏi cổ. Nghe vậy nhưng nữ thần Parvati vẫn không tin, nài nỉ thần Shani hãy nên ngắm nhìn (cháu nó) một lần, và kết quả là đầu cậu bé đã rơi lìa khỏi cổ. Trước tình cảnh thảm thương ấy, các vị thần đều cùng nhau than khóc, riêng thần Vishu đã vội vàng đi đến sông Pushpabhadra, mang đầu một con voi con về và gắn lên người cậu bé, làm sống lại cậu. Về sau (nghe nói) Ganesha rất thông minh trí tuệ, trở thành một vị thần quan trọng và được tin là bậc sáng tác nên bộ Mahabharata.
Còn những huyền thoại khác về vị Thần này, nhưng ở trên là hai câu chuyện phổ biến.
Tại nơi tôi ở lễ hội Ganesha được chuẩn bị khá sớm. Trước khi lễ hội bắt đầu, người ta cho dựng những lễ đài tại các con phố và tôn trí tượng thần Ganesha ở đó. Người Ấn không coi trọng lắm hình thức, nên lễ đài cũng không có gì cầu kỳ hay “hoành tráng.” Không có cảnh cơ quan đoàn thể đến tặng hoa, chúc mừng và phát biểu này nọ.
Vào những ngày lễ, người Hindu thường lui tới các nơi thờ tượng thần Ganesha để dâng thức ăn và nước. Thức ăn thường là những thứ bánh ngọt, nước thì thường là nước dừa. Họ cũng cầu nguyện Thần giúp họ giải trừ những chướng ngại và rủi ro, và tất nhiên nhớ giúp họ đạt được may mắn và thịnh vượng trong đời sống. Nhưng trước khi cầu nguyện/xin thì phải đọc kinh, vì vậy những thánh tụng từ các Veda và Upanishad thường được tụng đọc vào dịp này.
Vào những ngày lễ, người ta cũng khuyên các tín đồ không nên nhìn trăng (trong khi có đông người đang ngắm trăng Trung thu), bởi làm như vậy là hành xử không thích hợp với Thần, nếu không muốn nói là xúc phạm đến ngài. Điều này hẳn nhiên là có nguyên nhân của nó. Bên cạnh đó người ta cũng khuyên rằng không nên kết bạn với những người không có niềm tin vào Thần (ít nhất vào những ngày lễ).
Âm nhạc và nhảy múa là những yếu tố không tách rời khỏi các lễ hội của Ấn; và cả hai đã được sử dụng tối đa trong dịp này. Cách sử dụng âm nhạc với tiếng trống mạnh được phóng đi trên những dàn loa công suất lớn, khiến người chưa quen mỗi khi đi ngang những nơi tổ chức lễ hội cảm giác như tim muốn rơi ra khỏi lồng ngực. Nhìn những đám người nhảy múa, bột màu bôi đầy mình mẩy, mồ hôi nhễ nhại dưới trời nắng, mới thấy sự nhiệt tâm của họ với lễ hội.

Tượng thần Ganesha được đặt ở các lễ đài mười ngày liền cho dân chúng lễ bái. Vào ngày thứ 11, tượng được đặt trên xe và đưa đi khắp các đường phố. Người ta cũng chẳng cần đến xe hoa xe bông lộng lẫy. Tượng được đặt trên những chiếc xe tải to kềnh, trang trí sơ sài với vài vòng hoa vạn thọ. Sau khi được mang đi dạo qua nhiều nơi, tượng sẽ được nhúng xuống một dòng sông nào đó, tượng trưng cho sự chia tay giữa dân chúng với Thần.
Trong suốt những ngày lễ hội, tại khu phố tôi ở, các gia đình mang một tượng thần Ganesha nhỏ, cùng với một ít hoa và nước, đến một ngôi đền hay nơi có lễ đài thờ tượng thần Ganesha. Đến đó, sau khi thực hành một vài nghi thức tôn giáo và nhận lấy sự chú nguyện, họ mang tượng thần về nhà phụng thờ, cầu mong một năm an vui, thịnh vượng.
Nhà tôi ở, không thấy ông chủ thực hiện nghi thức này. Chủ nhà của tôi là một Hindu-Phật tử. Tôi gọi ông là một Hindu-Phật tử bởi ông nói với tôi rằng ông là một Hindu-Buddhist. Cách đây một tháng, thấy ông và cậu con trai cùng “xuống” tóc, hơi lạ nên tôi hỏi lý do, thì ông bảo rằng ông theo phong trào Phật giáo của Ambedkar, tuy nhiên không rời bỏ Ấn giáo, vì vậy ông là một Hindu-Buddhist. Ông kể rằng những người tín đồ như ông một năm xuống tóc một lần, là một quy định chung. Hỏi lý do thì ông chỉ cười.
Tiến sĩ Ambedkar từ bỏ Ấn giáo một cách triệt để, nhưng nhiều người theo ông thì còn nửa vời. Không biết là do người ta không đủ can đảm từ bỏ hẳn Ấn giáo vì sợ sẽ trở nên lẻ loi giữa cộng đồng Hindu, hay vì Ấn giáo đã ăn sâu vào trong xương tủy nên người ta không thể từ bỏ được. Và không biết phong trào của Ambedkar về sau có biến thành Hin-Bud-ism không, một dạng “tiếp biến” để trở thành “nhị giáo đồng nguyên.” (http://www.hoalinhthoai.com/ ).
Xin theo dõi tiếp bài 9 . dienbatn giới thiệu .
Share:

लोकप्रिय पोस्ट

Lưu trữ Blog

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn

Lưu trữ Blog

Recent Posts

Unordered List

  • Lorem ipsum dolor sit amet, consectetuer adipiscing elit.
  • Aliquam tincidunt mauris eu risus.
  • Vestibulum auctor dapibus neque.

Label Cloud

10 điều đại kỵ trong nhà ở và cách hóa giải (1) 7 sai lầm phong thủy cần chú ý (1) 83 VỤ (1) Ai vái lạy ai (1) an táng (1) ẢNH HƯỞNG (2) AQUA (1) Ất Sửu (2) Ất Tỵ (1) Bài thuốc dân gia (1) bán mở hàng (1) BÁT TRẠCH CHUYÊN SÂU (2) bệnh gút (1) Bệnh gút. Phương thuốc chữa trị bệnh (1) bệnh liệt dương. Đậu đen (1) BẾP (2) Bếp ăn gần phòng vệ sinh: Kiêng kị và cách hóa giải (1) Bính Dần (2) Bính Ngọ (2) Bính Thìn (2) Bính Tuất (2) Bính Tý (2) Bosch (1) bổ thận tráng dương. đậu đen (1) Bố trí bàn trà phòng khách theo phong thủy (1) Bùi Long Thành (2) Cá trê hầm đậu đen. suy giảm tình dục (1) CÁC VỊ TRÍ ĐẶT BẾP (2) CÁCH BỐ TRÍ VĂN PHÒNG GIÚP LỘC VÀO NHƯ NƯỚC (1) Cách hóa giải bếp dựa vào cửa sổ (1) Cách hóa giải hướng xấu cho nhà tắm (1) Cách hóa giải khi ngõ đâm thẳng vào nhà (1) Cách tính Trùng Tang (1) Can chi (1) Canh Dần (2) Canh Ngọ (2) CẢNH QUAN BÊN NGOÀI (2) Canh Thân (2) Canh Thìn (2) Canh Tuất (2) Canh Tý (2) cáo tổ tiên (1) CĂN NHÀ (2) Cân Lượng (1) CẦU TỬ BÍ PHÁP (2) Cây dong riềng. trị bệnh mạch vành (2) Chàng trai (1) chiếc kim (1) chọn ngày (1) chọn ngày giờ tốt căn bản (2) CHỌN NGÀY TỐT (1) CHỌN NGÀY TỐT CĂN BẢN CHO 83 VỤ (2) chữa bệnh (1) có phù dâu (1) Coi bói số (3) Coi bói số Tử vi (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI DẦN: Giáp Dần (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI HỢI: Ất Hợi (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI MÃO: Ất Mão (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI MÙI: Ất Mùi (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI THÂN: Bính Thân (2) Coi bói số Tử vi trọn đời cho TUỔI THÌN: Giáp Thìn (2) Coi bói số Tử Vi trọn đời cho TUỔI TUẤT: Giáp Tuất (2) Coi bói số Tử vi trọn đời TUỔI DẬU: Ất Dậu (2) Coi số Tử vi trọn đời cho TUỔI TÝ. Tử vi (2) con người thật (2) con nuôi (1) Con so về (1) Công suất (1) CƠ SỞ KINH DOANH (2) Cung mệnh (1) CUNG VÀ SAO (2) CỬA CÁI (2) Cửa Sổ (2) Cửa thông (2) cưới hỏi (40) Daikin (2) Daikin âm trần (1) Daikin Inverter (1) Dạy con (1) Deawoo (1) DỌN DẸP SAU KHI CÓ ĐẠI TANG (2) DU LỊCH TÂM LINH (1) dùng trị liệt dương (1) DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (2) Đại kỵ cấu trúc 'cửa đối cửa' trong nhà (1) Đại sư HUỆ NGHIÊM (2) đàn bà tái giá (1) Đạo hiếu (1) đào hoa (1) đao ly (4) Đạo thầy trò (1) Đạt Ma (1) ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH (1) ĐẠT MA DỊCH CÂN KINH "CẢI CÁCH" (1) đặt tên chính (1) Đề phòng và hóa giải sao Thái tuế trong năm 2013 (1) điều hòa (2) điều hòa LG Inverter (1) Đinh Dậu (2) Đinh Hợi (2) Đinh Mão (2) Đinh Mùi (2) Đinh Sửu (2) Đinh Tỵ (1) độc thân (2) động tác gì (1) Đuôi bổ theo bài (3) đưa dâu (1) Đừng xem thường "mũi tên độc" trong phong thủy (1) Đường thông (2) Electrolux (2) ễ thành phục (1) Funiki (1) Funiki Inverter (1) gà trống phong thủy (1) gan yếu (1) gia lễ (1) Gia phả (1) Giao thiệp (11) Giáp Tý (2) Giỗ Tết tế lễ (1) giờ (1) gói quà (1) gỡ bí (1) GƯƠNG SOI (2) hạp và kỵ của 12 trực (2) HITACHI (2) Hóa giải cửa hàng ở ngã ba (1) Hóa giải hướng nhà cho gia chủ sinh năm 1957 (1) Hóa giải hướng nhà phạm đao sát (1) Hóa giải phong thủy phòng ngủ tăng đường con cái (1) Hóa giải xung đột giữa các bé bằng vài mẹo nhỏ về phong thủy (1) Học khí công (2) HỘI NHẬP CON NGƯỜI THỰC (4) HUỆ NGHIÊM (2) HUYỀN KHÔNG BÁT TRẠCH (2) HUYỀN MÔN PHONG THỦY (9) HUYỆT NGUY HIỂM (1) INVERTER (7) kén giống (1) khai sinh (1) khao lão (1) Khắc phục hướng cổng chính không tốt như thế nào? (1) khâm liệm (1) KHÍ CÔNG DƯỠNG SINH (4) Khi ngôi nhà " trúng mũi tên độc" (1) KHUYẾT (2) KÍCH HOẠT CÁC CUNG BÁT QUÁI (2) KIẾN THỨC DỊCH LÝ (2) KIẾN THỨC PHONG THỦY (19) KIẾN THỨC TRẠCH NHẬT (9) Kiết Tú là Sao (2) KINH NGHIỆM CẢI TÁNG (4) Kỷ Dậu (2) Kỷ Hợi (2) Kỷ Mão (2) KỲ MÔN ĐỘN GIÁP (10) Kỷ Mùi (2) Kỷ Sửu (2) Kỷ Tỵ (1) làm lạnh (1) làng xã (1) lãnh cảm (1) Lấy vợ (1) le thai binh (1) Lễ lại mặt (1) Lễ tang (2) lễ trọng (1) Lễ vấn danh (1) Lễ xin dâu (1) LG INVERTER (1) Liệt dương (1) lỗi điều hòa (2) lời chào (1) ly hôn (1) ma chơi (1) MÃ lỗi (17) mã lỗi Daikin (1) Mã lỗi Điều hòa (1) mã lỗi máy giặt (3) mã lỗi Samsung Inverter (1) MÃ LỖI TỦ LẠNH (1) Mảnh đất xấu về phong thủy và cách hóa giải (1) Mảnh đất xấu về phong thủy và cách hóa giải (Bài 2) (1) Màu sắc (2) máy giặt (12) máy giặt LG (2) máy giặt Samsung (1) MÁY GIẶT SANYO (1) máy giặt Toshiba (1) MÁY GIẶT TOSHIBA NỘI ĐỊA (1) máy lạnh LG (1) máy lạnh LG inverter (1) MẬT TÔNG (7) MẬT TÔNG-ĐẠO PHÁP-HUYỀN MÔN (36) Mậu Dần (2) Mậu Ngọ (2) Mậu Thân (2) Mậu Thìn (2) Mậu Tuất (2) Mậu Tý (2) Mẹ chồng (1) mẹ cô dâu (1) Miếng trầu (1) Mitsubish (1) Mitsubishi (2) Mitsubishi Inverter (1) Mối lái (4) NATIONAL (2) ngã năm như thế nào? (1) NGÀY GIỜ TỐT (2) Ngày kiêng (1) Ngày Kim Thần Thất Sát (1) ngày tết (1) ngày tốt (2) ngày tốt xấu (2) ngày xấu (1) ngày xấu trong tháng (2) NGHIỆM CHỨNG DỊCH LÝ (9) NGHIỆM CHỨNG PHONG THỦY (37) NGHIÊN CỨU PHONG THUỶ (10) NGHIÊN CỨU PHONG THUỶ ÂM TRẠCH (30) NGỌC HẠP THÔNG THƯ (1) Ngũ Hành (2) Nhà ở gần đường trên cao và cách hóa giải (1) Nhà phạm hướng Thái Tuế: Lý giải và hóa giải (1) Nhà phạm Tuyệt mệnh hóa giải thế nào? (1) Nhà vệ sinh (2) Nhâm Dần (2) Nhâm Ngọ (2) Nhâm Thân (2) Nhâm Thìn (2) Nhâm Tuất (2) Nhâm Tý (2) Nhập gia (1) nhuộm răng (1) Những biện pháp hóa giải các hung tinh của năm 2013 (1) Những cấm kỵ phong thủy với từng không gian sống (1) Những điều cần lưu ý trong phong thủy chung cư (1) Những điều đại kỵ trong phong thủy nhà ở và văn phòng năm 2013 (1) Panasonic (2) PANASONIC INVERTER. Mã lỗi Điều hòa PANASONIC (1) PHÁC HỌA CHÂN DUNG (4) PHẦN LỒI (2) PHẬT GIÁO (4) PHÒNG KHÁCH (2) Phòng ngủ (2) Phòng tắm (2) Phong Thủy (6) PHONG THỦY ÂM TRẠCH (30) Phong thủy cao cấp (8) PHONG THỦY CHO VIỆC ĐÀM PHÁN (2) PHONG THỦY CỔ THƯ (16) Phong thủy cơ bản (22) PHONG THUỶ DÀNH CHO DOANH NGHIỆP (2) Phong thủy hóa giải sao Tam Sát và Tuế Phá năm 2013 (1) PHONG THUỶ HỌC (19) PHONG THỦY HƯƠNG HOA LÀM CON CÁI VÂNG LỜI CHA MẸ (2) PHONG THỦY LẠC VIỆT (37) Phong thủy nâng cao (7) PHONG TỤC - TÍN NGƯỠNG (1) phong tục việt nam (45) phu thê (1) PHỨC TRẠCH (2) Phương pháp chọn ngày giờ tốt căn bản (2) Quý Dậu (2) Quý Hợi Nam Mạng – Ất Hợi (2) Quý Mão (2) Quý Mùi (2) Quý Sửu (2) Quý Tỵm (1) rau mồng tơi (1) Ruộng hương hỏa (1) SAMSUNG (1) Samsung Inverter (1) SANYO (1) Sắp đặt nội thất để hóa giải hướng nhà xấu (1) sắp xếp Sao (2) SHARP (1) SINH TÀI VƯỢNG VỊ VÀ VIỆC ĐẶT THẦN TÀI (2) SONG SƠN NGŨ HÀNH (2) SƠN CHỦ (2) Tam nương sát (1) Tăng sinh lực. đuôi lợn (1) Tân Dậu (2) Tân Hợi (2) Tân Mão (2) Tân Mùi (2) Tân Sửu (2) Tân Tỵ (1) thách cưới (1) Thảm trải (2) thăm bệnh (1) thận hư (1) Thập Ác (1) theo ngày tháng năm (1) thien viet (1) THIÊN Y TRẠCH (2) Thờ Cúng (4) thờ vọng (1) thủ tục (1) THƯƠNG LƯỢNG (2) Tía tô. Tía tô chữa bệnh gút (1) Tiền nạp (1) Tín Tổ Tiên (4) Tín Ngưỡng (4) tóc thề (1) TOSHIBA (3) tơ hồng (1) trai tơ (1) trấn đài hoa (1) Trần nhà (2) trị gút dứt điểm (1) trong cùng họ (1) trong họ (1) truyền thống (1) tủ lạnh (1) tu vi (8) tục kiêng (1) tui vi (2) tuổi dân (2) tuổi hợi (2) tuổi mão (2) TUỔI SỬU (2) tuổi thìn (2) tử huyệt (1) TỨ LỘ HOÀNG TUYỀN (2) Tử vi (1) TỬ VI TRỌN ĐỜI (12) Tử vi trọn đời cho TUỔI NGỌ: Giáp Ngọ (2) Up rom (1) ử vi trọn đời cho TUỔI TỴ (1) việc an táng. (1) việc họ (1) Việc nhà nông (1) việc nhập học (1) việc xuất quân (1) vợ cả (1) vợ chồng (2) VỤ ĐỊNH LÀM (2) xem ngày (1) XEM NGÀY TỐT XẤU (7) Xiaomi (1) Xích Tùng Tử (1) xin quần áo cũ (1) Xuất xứ của tục chọn ngày chọn giờ (1) Xưng hô (2) Yến lão (1)

Sample Text

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipisicing elit, sed do eiusmod tempor incididunt ut labore et dolore magna aliqua. Ut enim ad minim veniam, quis nostrud exercitation test link ullamco laboris nisi ut aliquip ex ea commodo consequat.

Pages

Theme Support

Need our help to upload or customize this blogger template? Contact me with details about the theme customization you need.