BÁT TRẠCH CHUYÊN SÂU
*****
*****
A/. HUYỀN KHÔNG BÁT TRẠCH
Nói đến Huyền Không Bát Trạch, là phải nói đến bậc Thầy về Phong Thuỷ là Dương Quân Tùng đời Đường, chính ông đã đưa ra những thuyết về Huyền Không cho Bát Trạch, chuyên dùng để định Sa, Thủy, Lập Hướng cho Dương Trạch và Âm Trạch.
Huyền Không Bát Trạch có 2 phần: Đại Huyền Không và Tiểu Huyền Không. Dựa trên nguyên tắc Sinh, Khắc, Vượng, Tướng của Ngũi Hành mà chọn.
1/. Tiểu Huyền Không Ngũ Hành:
Đây là cách để đo lường Cát , Hung của Dương Trạch , Âm Trạch dựa trên Sa , Thủy. Lấy Hướng mà định. Theo ông Dương Quân Tùng thì :
Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hỏa
Càn Khôn Mẹo Ngọ thuộc Kim
Hợi Giáp Cấn Quý thuộc Mộc
Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ
Tý Dần Thìn Tốn Tân Tị Thân Nhâm thuộc Thủy.
(cái này thì các bạn phải tự học thuộc rùi nhé).
Thủy lai ( đến ) phải từ các Sơn có Ngũ Hành Vượng , Tướng.
Thủy khứ ( đi ) phải từ các sơn có Ngũ Hành Hưu , Tù.
Ví dụ cho dễ hiểu nha : Một căn nhà tọa Nhâm hướng Bính chẳng hạn.
_ Mình xem bảng ở trên thấy Bính thuộc Hỏa. Vậy thì các Hành Vượng Tướng so với Hỏa chính là Hỏa ( cùng Hành với Hỏa , nên Hỏa là Vượng ) , và Mộc ( Mộc sinh Hỏa , nên Hỏa được Tướng ).
Vậy thì các sơn có thể tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Hợi, Giáp, Cấn, Quý.
_ Bính thuộc Hỏa , vậy thì các Hành Hưu Tù so với Hỏa chính là Thổ ( Hỏa sinh xuất cho Thổ , nên Hỏa bị Hưu ) và Thủy ( Thủy khắc nhập Hỏa , nên Hỏa bị Tù )
vậy các sơn để Thủy khứ là Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.
Ví dụ nữa nè : Một ngôi mộ tọa Thìn hướng Tuất.
_ Ta thấy Hướng Tuất thuộc Thổ
Vậy thì các Hành Vượng Tướng so với Thổ chính là : Thổ và Hỏa
=> các sơn tiếp nhận Thủy lai là Bính, Đinh, Dậu, Ất, Tuất, Canh, Sửu, Mùi.
_ Tuất thuộc Thổ
Vậy thì các Hành Hưu Tù so với Thổ chính là : Kim và Mộc.
=> các sơn để Thủy khứ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Hợi, Giáp, Cấn, Quý.
Khi ứng dụng phép xem theo Tiểu Huyền Không ,phải dùng hoàn toàn Ngũ Hành theo Tiểu Huyền Không này , chớ xen lẫn Ngũ Hành các thuyết khác. Bởi trong Bát Trạch , ngoài Chính Ngũ Hành , còn có Tiểu Huyền Không Ngũ Hành , Đại Huyền Không Ngũ Hành , Hồng Phạm Ngũ Hành , Tam hợp cục Ngũ Hành , Nạp âm Ngũ Hành. Nếu dùng lẫn lộn e sẽ xảy ra lầm lẫn đáng tiếc. Cẩn thận! Cẩn thận!
Đây chỉ mới là cách tính thuận , phần sau mình sẽ bàn cách tính Nghịch , từ Thủy luận ngược lại chọn Hướng cho Nhà và Mộ.
Ở trên là nói về cách tính thuận, nhưng đó chỉ là cách trên sách vỡ thui. Còn thực tế, chúng ta phải tính nghịch là thường nhất. Nghĩa là từ thế Thủy thực tế mà ta chọn Hướng cho nhà ở hay mộ phần. Cách này thì mình làm ngược thui ý mà!
Ví dụ cho dễ hiểu: Đứng trên 1 cuộc đất, ta thấy Thủy lai đáo sơn Càn (Khi dùng chữ Thủy Lai này, xin các bạn hiểu cho là NCD đang nói về Âm Trạch, mộ phần đó nhen!), muốn chọn hướng cho Huyệt mộ, ta xét:
Càn theo Tiểu Huyền Không Ngũ Hành là thuộc Kim.
Vậy các Hướng cần lập là Kim và Thủy ( không còn là Kim và Thổ như cách tính thuận nữa đâu , xin đừng lầm , lầm 1 cái là chít liền đó ). Tức là một cái đồng Ngũ Hành với Thủy Lai, một cái là được Thủy Lai sinh cho.
=> các hướng để lập mộ sẽ là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.
Dễ hén !
Thêm 1 ví dụ nữa cho Dương Trạch đi : Với Dương Trạch , Thủy lai chính là các ngã đường gần nhất so với cuộc đất mình chọn. Do đó , các bạn hay thấy SH yêu cầu người cần tư vấn tả xem ngã 3-4 gần nhà nhất thuộc sơn gì so với nhà là vậy đó. Đứng tại trung tâm đất đặt La bàn , chiếu tới ngã 3-4 gần đó nhất , xem nó rơi vào sơn gì , thì đó chính là sơn của Thủy lai trong Dương Trạch.
Nhà trong khu đô thị thường mình khó có thể xoay hướng khác , trừ phi....nhà biệt thự . Mà thường nhất là nhà cố định hướng sẵn , trong trường hợp này , mình vẫn xác định hướng Thủy lai để....Khai môn.
Nhà tọa Cấn hướng Khôn đi, có ngã tư gần nhà nhất thuộc sơn Càn.
Ta thấy theo Tiểu Huyền Không Ngũ Hành thì Càn thuộc Kim.
Vậy các sơn có thể Khai môn sẽ thuộc : Kim và Thủy
=> các sơn Khai môn là Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Thân, Tốn, Tị, Nhâm, Tân.
2/. Đại Huyền Không Ngũ Hành :
Đây cũng là cách để định Thủy lai, Thủy khứ trong cả Dương trạch lẫn Âm trạch. Pháp này được ghi lại trong Thiên Ngọc Kinh, 24 sơn cũng chia ra theo Ngũ Hành, cụ thể là :
Tý, Dần, Thìn, Cấn, Bính, Ất thuộc Kim
Ngọ, Thân, Tuất, Khôn, Nhâm, Tân thuộc Mộc
Mẹo, Tị, Sửu, Càn, Canh, Đinh thuộc Thủy-Thổ
Dậu, Hợi, Mùi, Tốn, Giáp, Quý thuộc Hỏa
Nguyên tắc xét PT không ra ngoài sơn, hướng, sa, thủy.
Theo cách tính của Đại HKNH, thì dùng Chi làm Chính thần, Can làm Linh thần. Nghĩa là Sơn Hướng phải dùng các sơn thuộc Địa Chi, Thủy lai phải đến các sơn thuộc Thiên Can hoặc Tứ duy (Càn, Khôn, Cấn, Tốn).
Khi xét Thủy lai theo Đại HKNH, thì lấy thế Hướng và Thủy cùng Ngũ Hành và Tương Sinh.
Nói khơi khơi như vậy chắc khó hiểu lắm, thôi để mình ghi ví dụ cho dễ.
Ví dụ : Nhà hay Mộ có các hướng thuộc Kim: Tý, Dần, Thìn.
nên chọn Thủy lai ở các sơn Cấn, Bính, Ất (cùng Ngũ Hành), Càn, Canh, Đinh (tương sinh ).
Nhà hay Mộ có các hướng thuộc Hỏa: Dậu, Hợi, Mùi (tương sinh).
Cũng như cách Tiểu HKNH, đây là cách tính thuận, còn trên thực tế thường tính nghịch lại, lấy Thủy thực tế mà chọn Hướng. Xin đừng quên!
Trong thực tế , mình có thể áp dụng cả 2 phương pháp Đại và Tiểu HKNH chung với nhau để định Thủy, hoặc lập hướng, khai môn.
Đứng trước 1 thế đất nào đó , nếu xây mộ thì nhìn Thủy đáo sơn nào , nếu khai môn thì xem giao lộ gần nhất ở sơn nào so với trung tâm , mình xét theo Đại HKNH thì nó thích hợp với các sơn nào để lập hướng , khai môn ; rồi lại xét tiếp theo Tiểu HKNH xem nó thích hợp với sơn nào. Mình gộp các sơn đó lại , chọn sơn nào có ở cả 2 pp mà lấy. Có đôi khi , nó không thích hợp , chẳng hạn nếu chọn khai môn ở bên hông nhà sao được ? Khi ấy ta phải dùng các pp khác nữa để chọn , cái này NCD sẽ nói ở sau.
Ví dụ : Cuộc đất có Thủy đáo sơn Khôn , muốn lập hướng cho mộ , ta tính thử xem nhé !
Theo Tiểu HKNH thì Khôn thuộc Kim , vậy các sơn cần để lập hướng phải thuộc Kim hay Thủy
=> các sơn để lập hướng là : Càn, Khôn, Mẹo, Ngọ, Tý, Dần, Thìn, Tốn, Tân, Tị, Thân, Nhâm.
Theo Đại HKNH thì Khôn thuộc Mộc, vậy các sơn cần lập hướng phải thuộc Mộc và Hỏa
=> các sơn để lập hướng là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp, Quý.
Gộp cả 2 lại, ta thấy có các sơn thích hợp là: Khôn, Tốn, Tân, Nhâm.
Ví dụ nữa : Nhà ở thành phố có giao lộ gần nhất thuốc sơn Tuất, muốn chọn sơn Khai môn, ta tính thử xem:
Theo Tiểu HKNH thì Tuất thuộc Thổ , vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Thổ, Hỏa
=> các sơn để Khai môn là: Tuất, Canh, Sửu, Mùi, Bính, Đinh, Dậu, Ất.
Theo Đại HKNH thì Tuất thuộc Mộc, vậy các sơn cần để Khai môn phải thuộc Mộc, Hỏa
=> các sơn để Khai môn là: Khôn, Nhâm, Tân, Tốn, Giáp, Quý
Gộp cả 2 lại, ta thấy không có sơn thích hợp. Như vậy, ta phải dùng pp khác để chọn thôi.
B/. SONG SƠN NGŨ HÀNH
Ta thấy 1 vòng Địa bàn có 24 sơn, mà trên tựa đề là Song sơn, như vậy đủ thấy rõ sẽ có 12 cặp trong 24 sơn.
Đây thực ra chỉ là phương pháp chọn theo Tam hợp cục Ngũ Hành, và phối thêm các sơn đứng trước mỗi chữ Địa chi đó thành 1 cặp thôi.
_ Dần, Ngọ, Tuất là Tam hợp hóa Hỏa, nay thêm các sơn đứng kế trước nó, sẽ có Tam hợp cục Hỏa theo song sơn như sau: Cấn, Dần, Bính, Ngọ, Tân, Tuất.
_ Tị, Dậu, Sửu là Tam hợp hóa Kim, nay thêm các sơn kề trước nó, sẽ có: Tốn, Tị, Canh, Dậu, Quý, Sửu là Tam hợp cục Kim theo song sơn.
_ Thân, Tý, Thìn là Tam hợp hóa Thủy, nay thêm các sơn kế trước nó, sẽ có Tam hợp cục Thủy theo song sơn là: Khôn, Thân, Nhâm, Tý, Ất, Thìn.
_ Hợi, Mẹo, Mùi là Tam hợp hóa Mộc, nay thêm các sơn kề trước nó, sẽ có Tam hợp cục Mộc theo song sơn như sau: Càn, Hợi, Giáp, Mẹo, Đinh, Mùi.
Phương pháp song sơn này được ứng dụng rất rộng rãi trong phép Tiêu sa, nạp thủy.
Ví dụ : Thế đất có Thủy lưu đáo sơn Nhâm.
Ta thấy Nhâm thuộc Tam hợp Thủy cục, vậy các hướng cần chọn là Thân, Tý, Thin, rất gọn.
Vì dụ : Thế đất có Thủy đáo sơn Tân
Ta thấy Tân thuộc Tam hợp Hỏa cục, vậy các hướng cần chọn là Dần, Ngọ, Tuất. Chííííít liền đó !!! Đây là 1 cái bẫy. Vì sao ?
Trong phép Tiêu sa, nạp Thủy, luôn luôn Thủy lai phải từ các sơn Sinh, Vượng, Lâm Quan; Thủy khứ phải từ các sơn Mộ khố.
Ở đây, Tuất là Mộ khố của cục Hỏa, nên chỉ có thể là Thủy khứ, nay Thủy lai, ta không thể chọn theo phương pháp này được, mà phải dùng pp khác. Hãy cẩn thận!
Do ở trên có đề cập tới Mộ khố của cuộc đất, nên giờ mình giới thiệu tiếp luôn về pp Thập nhị thần
C/. THẬP NHỊ THẦN ĐẠI PHÁP
Trong tất cả các phương pháp Tiêu Sa - Nạp Thủy của Phong Thủy, thì đây là phương pháp quan trọng nhất. Đây là biểu hiện trạng thái của vạn vật từ thai nghén đến sinh trưởng, lớn lên cho đến suy tàn. Cụ thể như sau:
_ Tuyệt: Biểu thị trạng thái không có gì, vạn vật chưa tượng hình, như trong bụng mẹ trống không chưa mang thai.
_ Thai: Tức là vạn vật phôi thai, mới tượng hình, nảy mầm. Cũng như bào thai mới thụ khí bẩm sinh của cha mẹ.
_ Dưỡng: Muôn vật đã hình thành, tựa như bào thai đã phát triển chờ ngày khai hoa nở nhụy.
_ Trường sinh: Vạn vật bắt đầu sinh ra, như đứa trẻ lọt lòng mẹ, còn rất yếu ớt, non nớt.
_ Mộc dục: Vạn vật phát triển, như cây dần lớn lên, bắt đầu hứng chịu nóng lạnh, gió mưa, bão táp. Như đứa trẻ mới lớn, vẫn còn cần vòng tay của cha mẹ.
_ Quan đới: Như cây đã bắt đầu ra hoa, như người đã trưởng thành.
_ Lâm quan: Như cây đã kết trái, như người thi cử đỗ đạt ra làm quan, có được công việc ổn định.
_ Đế vượng: Như trái đã chín mùi, như thời hưng vượng thành đạt nhất của đời người, có được vinh hoa phú quý, hạnh phúc.
_ Suy: Vạn vật từ Trưởng chuyển sang Tiêu, như người đã leo đến đỉnh núi tất phải quay trở xuống vậy, như giai đoạn đời người đã lớn tuổi, đã nghỉ hưu. Như cây sau mùa ra trái, bắt đầu suy yếu, kiệt dinh dưỡng vậy.
_ Bệnh: Như người đã già yếu, bắt đầu bệnh tật xâm hại. Như cây suy yếu bị côn trùng, nấm mối tấn công vậy.
_ Tử: Như người đã già cỗi đến chết, như cây đã cằn cỗi chết đi.
_ Mộ: Như người đã chôn xuống mộ sâu, mục rữa trở về đất lạnh.
Do ý nghĩa 12 cung như vậy, nên người ta mới chọn Trường Sinh làm cung khởi đầu, lấy tượng con người mới sinh ra làm giai đoạn đầu.
Trong đó có 4 cung Cát nhất là: Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng. Người ta dùng 4 Cát để Nạp Sa, Thu Thủy.
3 cung trung bình là: Mộc Dục, Thai, Dưỡng ít dùng tới .
5 cung Hung là: Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt. Người ta dùng 5 cung Hung để chọn sơn Thủy Khứ (chảy đi).
Cách khởi cung của Thập Nhị Thần này, khời từ Trường Sinh cho đến cuối cùng là Dưỡng, 12 cung trên 24 sơn, với mỗi cung là 2 sơn trong Song Sơn Ngũ Hành (đã nói ở trên). Và phép khởi có 2 điểm cần lưu ý:
_ Khởi cung dựa theo đặt tính Tam Hợp Cục Ngũ Hành của sơn Địa Chi trong song sơn, để chọn cung Trường sinh ở đâu.
_ Khởi cung Trường Sinh đi thuận nghịch là tùy theo thế đất Âm hay Dương.
Thế đất Âm hay Dương là gì?
Âm Long là thế đất từ phải chạy sang trái, giống như đi ngược chiều kim đồng hồ vậy.
Dương Long là thế đất chạy từ trái sang phải, giống như đi thuận chiều kim đồng hồ vậy.
Thế đất Dương phải phối với Thủy Âm _ Thế đất Âm phải phối với Thủy Dương.
Thủy lưu Âm là dòng nước chảy từ phải sang trái, ngược chiều kim đồng hồ là nghịch, nên gọi là Âm.
Thủy lưu Dương là dòng nước chảy từ trái sang phải, thuận chiều kim đồng hồ, nên là Dương.
Tam Hợp Cục Ngũ Hành:
_ Dần Ngọ Tuất là Hỏa cục: Dương khởi Trường Sinh tại Dần đi thuận, Âm khởi trường Sinh tại Dậu đi nghịch.
_ Thân Tý Thìn là Thủy cục: Dương khởi Trường Sinh tại Thân đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Mẹo đi nghịch.
_ Tị Dậu Sửu là Kim cục: Dương khởi Trường Sinh tại Tị đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Tý đi nghịch.
_ Hợi Mẹo Mùi là Mộc cục: Dương khởi Trường Sinh tại Hợi đi thuận, Âm khởi Trường Sinh tại Ngọ đi nghịch.
Có 2 cách để dễ nhớ cho các vòng Âm Dương này:
_ Cung Lâm Quan của Dương là Đế Vượng của Âm, và ngược lại, Đế Vượng của Dương là Lâm Quan của Âm.
_ Dương khời Trường Sinh tại cung đầu tiên trong Tam Hợp, Âm khởi Trường Sinh tại cung cuối cùng trong Tam Hợp lùi lại 1 cung.
Bây giờ xin đi vào phần thực hành của phương pháp Thập Nhị Thần này:
Khi Nạp Sa phải dùng Sơn (Long) của Mộ phần để nạp.
Thu Thủy phải dùng Hướng của Mộ phần để định.
Với Dương Trạch chỉ dùng Sơn của nhà để định thôi.
Ví dụ 1 : Ngôi mộ Cấn Long, Đinh Hướng. Thế đất Dương.
a/. Nạp sa
_ Thế đất Dương là khởi thuận.
_ Cấn Long thuộc song sơn Cấn Dần, thuộc Tam hợp Hỏa cục (Dần Ngọ Tuất)
_ Là Dương Hỏa cục nên khởi Trường sinh tại Dần => Mộc dục tại Giáp Mẹo, Quan đới tại Ất Thìn, Lâm Quan tại Tốn Tị, Đế Vượng tại Bính Ngọ, Suy tại Đinh Mùi.....Dưỡng tại Quý Sửu.
_ Các cung để Nạp Sa là: Cấn, Dần, Ất, Thìn, Tốn, Tị, Bính, Ngọ.
b/. Thu thủy
_ Đinh Hướng thuộc song sơn Đinh Mùi, thuộc Tam hợp Mộc cục (Hợi Mẹo Mùi)
_ Là Dương Mộc cục nên khời Trường sinh tại Càn Hợi => Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại Giáp Mẹo, Suy tại Ất Thìn....Dưỡng tại Tân Tuất.
_ Các cung để Thu Thủy là: Càn, Hợi, Quý, Sữu, Cấn, Dần, Giáp, Mẹo.
c/. Nếu là khởi cho Dương Trạch :
_ Đinh Hướng thì tất là Quý Sơn.
_ Quý thuộc Song sơn Quý Sửu, thuộc Tam hợp Kim cục (Tị Dậu Sửu)
_ Là Dương Kim cục nên khởi Trường Sinh tại Tốn Tị => Mộc dục tại Bính Ngọ, Quan Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại Canh Dậu, Suy tại Tân Tuất....Dưỡng tại Ất Thìn.
Ví dụ 2 : Ngôi mộ Tọa Canh Hướng Giáp. Thế đất Dương.
a/. Nạp sa:
_ Thế đất Dương nên đây là cục Dương , khởi thuận.
_ Tân thuộc song sơn Canh Dậu, thuộc Tam Hợp Kim cục (Tị Dậu Sửu)
_ Là Dương Kim cục nên khởi Trường sinh tại Tốn Tị => Mộc dục tại Bính Ngọ, Quan Đới tại Đinh Mùi, Lâm Quan tại Khôn Thân, Đế Vượng tại Canh Dậu, Suy tại Tân Tuất....Dưỡng tại Ất Thìn.
_ các cung để Nạp Sa là: Tốn, Tị, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu.
b/. Thu Thủy:
_ Giáp thuộc Song sơn Giáp Mẹo , thuộc Tam hợp Mộc cục (Hợi Mẹo Mùi)
_ Là Dương Mộc cục nên khởi Trường sinh tại Càn Hợi => Mộc dục tại Nhâm Tý, Quan Đới tại Quý Sửu, Lâm Quan tại Cấn Dần, Đế Vượng tại Giáp Mẹo, Suy tại Ất Thìn....Dưỡng tại Tân Tuất.
_ Các cung để Thu Thủy là : Càn , Hợi , Quý , Sửu , Cấn , Dần , Giáp , Mẹo.
c/. Nếu khởi cho Dương Trạch :
_ Tọa Canh thuộc Song sơn Canh Dậu , thuộc Tam hợp Kim cục ( Tị Dậu Sửu )
_ Là Dương Kim cục nên khởi giống ở VD trên.
Ví dụ 3 : Ngôi mộ Tọa Tân Hướng Ất. Thế đất Âm.
a/. Nạp Sa :
_ Thế đất Âm nên khởi nghịch.
_ Tọa Tân thuộc song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất ).
_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vượng tại Tốn Tị , Suy tại Ất Thín....Dưỡng tại Tân Tuất.
_ Các cung để Nạp Sa là : Canh , Dậu , Đinh , Mùi , Bính , Ngọ , Tốn , Tị.
b/. Thu Thủy :
_ Hướng Ất thuộc Song sơn Ất Thìn , thuộc Tam hợp Thủy cục ( Thân Tý Thìn ).
_ Là Âm Thủy cục nên khởi Trường Sinh tại Giáp Mẹo => Mộc dục tại Cấn Dần , Quan Đới tại Quý Sửu , Lâm Quan tại Nhâm Tý , Đế Vượng tại Càn Hợi , Suy tại Tân Tuất....Dưỡng tại Ất Thìn.
_ Các cung để Thu Thủy là : Giáp , Mẹo , Quý , Sửu , Nhâm , Tý , Càn , Hợi.
c/. Nếu là Dương Trạch :
_ Tọa Tân thuộc Song sơn Tân Tuất , thuộc Tam hợp Hỏa cục ( Dần Ngọ Tuất ).
_ Là Âm Hỏa cục nên khởi Trường Sinh tại Canh Dậu => Mộc dục tại Khôn Thân , Quan Đới tại Đinh Mùi , Lâm Quan tại Bính Ngọ , Đế Vướng tại Tốn Tị , Suy tại Ất Thìn....Dưỡng tại Tân Tuất.
***Lưu ý :
Đối với Dương Trạch, nếu nhà ở nông thôn, thì Sa, Thủy dùng như Sa, Thủy của Mộ phần Âm Trạch (Chân Sơn núi, đồi; Chân thủy sông, rạch, suối).
Nhưng ở khu đô thị thì sao ? Ở thánh phố, lấy các nhà cao tầng nhất trong khu đó, hay các khu gần đó làm Sa; lấy các giao lộ ngã 3-4-5 gần nhà làm Thủy.
Trong Lý thuyết thì chúng ta lấy từ Sơn (Long), Hướng ra để chọn Nạp Sa, Thu Thủy, NHƯNG trong thực tế, thường những cái đó đã có trước, cho nên ta thường phải làm ngược lại. Tức là từ Sa, Thủy có sẵn đó, ta chọn Hướng phù hợp với Sa, Thủy đó => Nhìn thế đất Dương hay Âm trước, sau đó xác định Sa, Thủy đó rơi vào 4 cung Cát nào (Trường Sinh, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng) của CỤC nào, từ đó xác định Sơn Hướng
Ta: khám phá
nguồn: HỌC THUẬT PHƯƠNG ĐÔNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét